Củ điền thất thúc đẩy nhanh tăng trưởng của cá mú
Nghiên cứu cho thấy củ điền thất là loại thảo mộc có tiềm năng rất lớn trong nuôi trồng thủy sản nhất là với các loài cá mú.
Củ điền thất còn có tên khác là vùi đầu thảo, hồi đầu thảo vui sầu, thủy điền thất, cỏ vùi đầu, người Tàu gọi là mần tảo lấy, hồi thầu, người Thái gọi là bơ pĩa mến,... Là loại cây thuộc thảo, sống hàng năm, mọc thành từng bụi. Lá mọc từ thân rễ (giống lá nghệ), phiến lá nguyên, lượn sóng men theo cuống đến tận gốc, xanh mượt, nhẵn bóng ở mặt trên.
Trong củ có antraglucozit, chủ yếu là emodin hay rheumemodin C15H10O5, emodin monometyl ete C16H12O5 dưới dạng tự do và kết hợp. Ngoài ra còn có chất polygonin C21H20O10, tanin, đại hoàng tố, phenol đại hoàng, vitamin C.
cây điền thất, cây điền thất trên cá, tăng trưởng cá mú, cá mú nghệNhững nghiên cứu trước đây cho thấy Dịch chiết nước củ điền thất có tác dụng chống viêm ức chế sự tăng sinh của các khối u trong cơ thể, ức chế sự đột biến và khép AND bởi 1- nitropyren. Là một trong những vị thuốc có tác dụng chống stress hiệu quả cho cá.
Nghiên cứu công dụng của củ điền thất trên cá mú nghệ
Cá mú lai (cá mú nghệ - Epinephelus lanceolatus ♂ × Cá mú hoa nâu - Epinephelus fuscoguttatus ♀) đã cho ăn 6 khẩu phần có chứa chất chiết xuất từ củ điền thất Panax notoginseng (PNE) với các mức độ khác nhau: 0 ; 0,5; 1; 2; 4 và 10 g/kg thức ăn trong 8 tuần.
Kết quả
Kết quả cho thấy rằng chế độ ăn có bổ sung PNE đã làm cải thiện đáng kể tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chuyển hóa quả thức ăn (FCR), tỷ lệ chuyển hóa protein (PCR) và tăng đáng kể tỷ lệ lipid thô của cơ thể cá và mức protein ở cơ.
Chế độ ăn có bổ sung PNE cũng làm tăng đáng kể alkaline phosphatase, immunoglobulin, nhưng làm giảm đáng kể lượng cholesterol, lipoprotein, triglyceride và glucose trong hệ tuần hoàn của cá.
Hơn nữa, PNE trong khẩu phần làm tăng chiều dài đoạn ruột và độ dày của cơ trong ruột trước, giữa và sau. Hoạt động của gan và khả năng chống oxy hoá, và tăng mức độ biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch (IL-10, TGF-β1, TOR, MHC2 và TLR3) ở thận và mức biểu hiện của các gen chống oxy hoá (CAT và GR) ở cá nuôi PNE ở mức 0,5 – 4 g PNE/kg thức ăn.
Kết luận
Cá mú ăn các khẩu phần thức ăn có bổ sung PNE với tốc độ tăng trưởng rất nhanh, đồng thời các thông số miễn dịch của máu, tình trạng chống oxy hoá ở gan, hình thái ruột và mức biểu hiện của các gien liên quan đến miễn dịch ở thận cũng tăng lên đáng kể. Qua đó cho thấy tiềm năng rất lớn của loài thảo mộc này đối với động vật thủy sản.
Related news
Tại Việt Nam bước đầu nghiên cứu và sản xuất thành công con giống cá mú lai này. Đây là đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế được người nuôi thương phẩm
Virus gây bệnh hoại tử thần kinh (VNN) đã lan rộng ở khắp nơi trên thế giới với số lượng loài cá biển cảm nhiễm ngày một gia tăng (Munday và Nakai 1997)
Sự tăng trưởng của nghề nuôi cá mú đã bị kìm hãm bởi những khó khăn trong giai đoạn ương ấu trùng. Tuy nhiên, theo CFEED, việc sử dụng giáp xác chân chèo