Chân dung vua giống nếp miền Tây
LTS: Với các cấp Hội Nông dân Việt Nam (NDVN), hội viên nòng cốt chính là những cán bộ, nông dân có trách nhiệm với tổ chức Hội ND, dám nghĩ, dám làm và năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, kinh doanh. Suy nghĩ, hành động của những hội viên nòng cốt đã tác động, lôi cuốn, cổ vũ phong trào, làm lợi cho cộng đồng... Trong chuyên đề Những nông dân “hạt giống đỏ”, NTNN xin giới thiệu một số chân dung nhà nông như thế.
Từ ông tổ trưởng nhiệt tâm...
Tổ hợp tác (THT) nông nghiệp Thạnh Mỹ Tây được thành lập năm 2004, với 23 thành viên. Ban đầu tổ được Hội ND chủ trì thành lập với 2 loại hình sản xuất là trồng trọt và chăn nuôi. Về sau, nhận thấy phong trào sản xuất lúa giống tại địa phương phát triển mạnh, ông Đạt với cương vị là tổ trưởng đã mạnh dạn đề nghị Hội ND và các tổ viên chuyển sang hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực lúa giống.
“Giống nếp thơm do anh Đạt nghiên cứu có chất lượng cao hơn các giống nếp khác tại địa phương, tuy nhiên để được công nhận thương hiệu giống cấp quốc gia, chúng tôi sẽ tiếp tục khuyến khích anh Đạt nghiên cứu thêm để nâng cao năng suất, mở rộng diện tích trồng”.
Ông Lương Hoàng Tuấn – Trưởng Trạm Khuyến nông huyện Châu Phú.
Ông Đạt kể, năm 2004, ông được Trạm Khuyến nông huyện mời tham dự lớp kỹ năng chọn tạo giống lúa. Sau đó ông lại tiếp tục được học lớp nâng cao ở Viện Nghiên cứu và phát triển ĐBSCL thuộc Trường Đại học Cần Thơ. Sau khóa học, ông hướng dẫn lại kỹ thuật cho tổ viên, cùng bà con mở rộng diện tích để cung cấp lúa giống cho ND trong vùng.
Đến năm 2005, THT nông nghiệp Thạnh Mỹ Tây được Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh hỗ trợ xây dựng thương hiệu. Từ đó, thương hiệu lúa giống của THT có tên trong danh sách những nhà cung cấp giống hàng đầu của tỉnh, được ND nhiều nơi tin tưởng.
Ông Đạt chia sẻ: “Để cho hạt lúa giống được tốt hơn, anh em trong tổ bàn bạc mua một máy tách hạt. Khi ấy, máy tách hạt trên thị trường có giá 135 triệu đồng. Vì nguồn vốn của tổ khá eo hẹp nên tôi quyết định tự làm cái máy rẻ hơn. Sau nhiều tháng nghiên cứu, thử nghiệm, cuối cùng máy cũng hình thành và đưa vào sử dụng hiệu quả, với chi phí khoảng 100 triệu đồng...”.
Khi THT đã đi vào ổn định, cũng chính ông Đạt là người khởi xướng THT hoạt động với phương thức mới. Đó là các thành viên thu hoạch lúa giống giao cho tổ thực hiện các công đoạn sàng lọc, đóng bao và tiêu thụ, lợi nhuận sẽ trích lại 50% cho tổ. Ngoài ra, đối với lúa giống mà thành viên gieo trồng bằng phương pháp cấy, THT sẽ mua với giá cao hơn 10-15% so với giá lúa thương phẩm. Với cách làm này, chất lượng giống không những được đảm bảo mà lợi nhuận của ND cũng được nâng lên.
Sau nhiều năm cải tổ, sắp xếp, đến nay THT có 18 thành viên với 30ha lúa giống. Vốn điều lệ của tổ đến nay đạt hơn 500 triệu đồng, sản xuất và tiêu thụ khoảng 500 tấn lúa giống/năm, đem về lợi nhuận hàng trăm triệu đồng cho các tổ viên.
... đến “Vua giống nếp”
Không dừng lại ở đó, từ chuyện bức xúc tại sao nước ta luôn phải nhập nếp Thái trong khi điều kiện đất đai phù hợp để tự sản xuất, ông Đạt tiếp tục nghiên cứu để quyết tâm lai tạo thành công giống nếp thơm mới.
Sau gần 4 năm miệt mài với nhiều lần thử nghiệm, kết quả ông Đạt cho ra đời giống nếp có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng gây bất ngờ cho nhà nông trong vùng. Điều đặc biệt là năng suất giống nếp này vượt trội so với các giống nếp đặc sản của những vùng chuyên canh nếp ở An Giang, hay giống nếp ngoại nhập từ 1- 1,5 tấn/ha.
Với những thành tích xuất sắc trong sản xuất, ông Đạt được Bộ NNPTNT tặng bằng khen ND sáng tạo năm 2009. Ông đạt được Hội ND công nhận danh hiệu ND sản xuất giỏi cấp tỉnh từ năm 2002 đến nay và nhiều hình thức khen thưởng khác…
Ông đặt tên cho giống nếp của mình là BĐ 1, sau đó đổi thành TMT 1, rồi chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao kỹ thuật cho nhiều ND trong vùng. Kết quả là ở vụ đông xuân 2013-2014, những ND trồng thử giống nếp này trúng mùa với năng suất vượt trội 10 tấn/ha.
Mặc dù đứa con tinh thần của mình chưa được công nhận giống nếp ở cấp quốc gia, nhưng ông Đạt quyết tâm nuôi dưỡng và tiếp tục giữ gìn nó cho đến cùng. Ông Đạt cho biết, ưu điểm nổi trội của giống nếp thơm đặc sản TMT 1 là khá cứng cây, đẻ nhánh mạnh, kháng sâu bệnh tốt, thích hợp với vùng đất sản xuất 3 vụ/năm. Cơm nếp có mùi đặc trưng, thơm mùi lá dứa, dẻo và mềm. Thời gian sản xuất vụ đông xuân khoảng 97 ngày, hè thu và thu đông khoảng 100 ngày, năng suất từ 9-10 tấn/ha. Hiện ông Đạt đang nghiên cứu để giảm thời gian sinh trưởng của giống nếp còn 90 ngày.
Theo ông Đạt, việc sản xuất ra giống nếp đã khó, mất thời gian gần 4 năm, nhưng việc giống được công nhận còn khó hơn nhiều. Nhà nước nên tạo cơ chế đặc thù để công nhận những nghiên cứu giống của nông dân. “Dù còn nhiều khó khăn, nhưng tôi vẫn quyết tâm làm lúa nếp giống. Đề nghị Hội ND, ngành nông nghiệp, các ngành chức năng tạo điều kiện thuận lợi để hợp thức hóa giống nếp, nhằm nhân rộng cho vùng sản xuất ĐBSCL, giúp ND làm giàu” - ông Đạt bày tỏ.
Related news
Từ ngày 12/4 đến 31/12, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tạm ngừng cấp giấy phép khảo nghiệm; ký hợp đồng khảo nghiệm; đăng ký thuốc BVTV có chứa một trong các hoạt chất: Glyphosate, Diazinon, Malathion, Tetrachlorvinphos.
Ông Nguyễn Thành Long ngụ tại thôn Thanh Bình, xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng là một trong những hộ nông dân có kinh tế khá giả tại địa phương. Vượt qua khó khăn buổi đầu lập nghiệp, ông đã làm giàu từ cách nghĩ, cách làm mới của mình giữa vùng cà phê Lâm Hà.
Sau 5 năm gắn bó với nghề nuôi ong, đến nay gia đình anh Nguyễn Văn Sơn ở xóm Khe Hương, xã Nam Lộc, huyện Nam Đàn (Nghệ An) có hơn 300 thùng ong, mỗi năm thu hoạch 30 tấn mật ong.