Cách nuôi cá trê Bắc Phi - Phần 2
Hệ thống sản xuất
Cá trê Bắc Phi được nuôi trong ao và trong bể bê tông, bể sợi thủy tinh và bể nhựa có nhiều mức độ thâm canh khác nhau. Các ao ngập nước truyền thống, nơi tập trung cá giống được tuyển chọn tự nhiên trong mùa mưa và cung cấp thức ăn ngoại sinh, tạo thành một hình thức nuôi trồng thủy sản dựa vào hoạt động đánh bắt. Các phần sau của tờ thông tin này mô tả các hệ thống sản xuất được được áp dụng ở Cameroon và Nigeria, tương tự như các hệ thống được sử dụng ở hầu hết các nước sản xuất.
Cung cấp giống, sản xuất và vườn ươm giống
Cá trê châu Phi sinh sản để đáp ứng với các tác nhân kích thích của môi trường như mực nước dâng cao và ngập lụt ở các khu vực trũng thấp. Những sự kiện này không xảy ra trong điều kiện áp dụng biện pháp nuôi nhốt và xử lý bằng hormone để đảm bảo sản xuất cá trê giống trên quy mô lớn. Các hormone được sử dụng bao gồm Ovaprim, Deoxycorticosterone Acetate (DOCA), Human Chorionic Gonadotropin (HCG), tuyến yên từ cá bố mẹ, cá chép bình thường, cá rô phi sông Nin và thậm chí cả ếch theo các quy trình kỹ thuật cụ thể. Chính phủ Nigeria và Cameroon hiện đang hỗ trợ nghiên cứu để phát triển và duy trì đàn cá bố mẹ khỏe mạnh để cung cấp cho tất cả các nhu cầu của các nhà sản xuất cá giống tư nhân cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chất lượng cá giống được bán trên thị trường.
Trong các trại sản xuất giống quảng canh, ấu trùng được cho ăn hỗn hợp óc bò và lòng đỏ trứng sau khi hấp thụ lại vitelline (noãn hoàng) trong vòng 4-6 ngày trước khi thả nuôi với mật độ 50-80 con/ m2 trong các ao ương đã được bón phân trước đó (thường là bón phân gà) để tăng cường sự phát triển của động vật phù du. Nông dân sản xuất trên quy mô nhỏ thả cá giống thu được từ các quy trình này trong các ao được bảo vệ khỏi động vật săn mồi bằng cách rào chắn lại.
Cá giống được cho ăn bằng các nguyên liệu đơn hoặc thức ăn hỗn hợp. Việc thu hoạch được thực hiện sau 24-28 ngày và cá giống đã được phân loại; trọng lượng trung bình ở giai đoạn này là 5-7 g. Vì kích thước được khuyến nghị khi chuyển sang ao sản xuất phải nặng >10 g nên có thể tiến hành quá trình vỗ béo bổ sung chỉ trừ khi khối lượng nhu cầu tức thời thúc đẩy những người vận hành trại giống bán cá giống có trọng lượng 6 g. Thông thường, tỷ lệ sống sót trong các hệ thống ương giống được quản lý thích hợp trung bình là 25-35 phần trăm.
Trong các ao được quản lý tốt, có thể tạo ra hơn 20,000 con cá giống/ kg cá bố mẹ có trọng lượng trung bình là 5 g. Mặc dù các thủ tục đang được đơn giản hóa, nhưng chỉ có một số người nông dân được tiếp xúc với phương pháp luận mới. Do đó, giá cá trê giống vẫn ở mức cao (0.15-0.25 đô la mỗi con ở Cameroon) và hầu hết những người nông dân thích thu mua giống tự nhiên khi có sẵn; Thật không may, những con cá giống này thường bao gồm hỗn hợp các loài cá Trê và một số loài (chẳng hạn như C. jaensis) có tốc độ tăng trưởng tương đối thấp hơn.
Các trại sản xuất giống trên quy mô lớn ở Nigeria đã phát triển hệ thống tuần hoàn thâm canh bằng cách sử dụng tôm bố mẹ được cải tiến về mặt di truyền học cùng với thức ăn tươi sống (Brachionus, Moina, Daphnia, Artemia) được phát triển trong các trang trại. Cá con được giữ ở mật độ 5000-15,000 con/ m3 và tỷ lệ sống sót của cá trên trứng lên đến 75% được ghi nhận. Các trại giống này cung cấp cá trê giống chất lượng tốt với giá từ 0.1-0.2 đô la mỗi con (tùy thuộc vào kích cỡ). Tuy nhiên, do nhu cầu cá trê giống thường vượt quá nguồn cung nên nhiều cơ sở sản xuất giống quy mô nhỏ có xu hướng ít quan tâm đến chất lượng cá giống mà họ cung cấp. Cá giống kém chất lượng đã làm nản lòng nhiều người nông dân nuôi thương phẩm trên quy mô nhỏ.
Trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), cá con (có trọng lượng từ 0.05-0.1 g) được cho ăn tôm ngâm nước mặn và thức ăn dành cho cá con 0.25 mm trong 14 ngày trong các bể có dung tích từ 100-1,000 lít (mật độ thả 600 g/ m3). Sau đó, cá con cải tiến (có trọng lượng từ 0.1-1.0 g), thả ở mật độ 10,000 con/ m3, được cho ăn thức ăn dành cho cá con 0.3-0.8 mm trong 26 ngày trong bể có dung tích từ 600-1 000 lít. Cá con (có trọng lượng từ 1-8 g) được nuôi trong bể có dung tích từ 600-6,000 lít ở mật độ thả 400 con/ m3 trong 20 ngày và được cho ăn thức ăn dành cho cá con từ 0.8-1.5 mm. Nhiệt độ nước được duy trì ở mức 28°C, độ pH ở mức 7 và các bộ lọc sinh học đảm bảo rằng nồng độ NH3 và NO2 tương ứng ở mức dưới 3 và 1 mg/ lít. Để tránh các vấn đề về dịch bệnh, tất cả các thành phần của hệ thống đều được khử trùng giữa mỗi vụ nuôi.
Ở hầu hết các nước sản xuất cá da trơn, cá lai có tên là Heteroclarias có sẵn từ các trại giống có tế bào trứng thụ tinh được thu thập từ cá cái Heterobranchus longifilis với tinh dịch được lấy từ cá trê Phi. Cá con kết quả thường biểu hiện tốc độ tăng trưởng được cải thiện so với các loài cá bố mẹ. Tuy nhiên, chúng không có khả năng sinh sản, ngay cả khi sử dụng các kỹ thuật nhân giống nhân tạo. Ngoài ra, loài lai này được báo cáo là có biểu lộ hành vi hung hăng và sự khác biệt lớn về trọng lượng cơ thể. Điều này khiến chúng có tỷ lệ sống sót kém trong các ao nuôi thương phẩm; Hành vi ăn thịt đồng loại là hiện tượng phổ biến ở các loài cá Trê.
Kỹ thuật chăn nuôi
Nhiều hệ thống khác nhau được sử dụng để chăn nuôi cá trê Châu Phi, kể cả những hệ thống được trình bày chi tiết dưới đây.
Các ao ngập nước truyền thống
Đối với các ao ngập nước ở Thung lũng Nkam ở Cameroon (địa phương gọi là Mbeuth) thì việc chuẩn bị ao được thực hiện ngay sau khi tổ chức các nghi lễ truyền thống vào cuối mùa khô, cùng với việc khai thác bùn đáy ao và cải tạo lại những nơi trú ẩn của cá. Ánh nắng mặt trời kích thích năng suất tự nhiên trước khi bắt đầu mùa mưa tiếp theo vào đầu tháng Tư. Cỏ dại và cây bụi xâm lấn các khu vực (cây bụi chính ở đây là Alchornea cordifolia) vào tháng 4 đến tháng 7. Trong những năm bình thường, lũ lụt ở sông Nkam và các nhánh sông của nó xảy ra vào tháng 7-10. Vào thời điểm đó, các ao ngập nước sẽ bị tràn ngập và cá lựa chọn một cách tự nhiên để tìm kiếm thức ăn và nơi trú ẩn cần thiết. Một số nông dân cung cấp thức ăn bổ sung cho cá vào tháng 12 và tháng 1 bằng cách sử dụng những thức ăn thừa hoặc các phụ phẩm công nghiệp riêng lẻ như cám mì y (cám mì thô) hoặc cám gạo. Nước rút bắt đầu và các ao được tháo cạn nước và cá được thu hoạch từ tháng Giêng đến tháng Ba. Kích thước và độ sâu ao trung bình ở thung lũng Nkam lần lượt là 40 m2 (475 ao, diện tích 2–240 m2) và 1.7 m (phạm vi 0.5 đến 3 m). Hầu hết các ao được thu hoạch sau vụ nuôi một năm (52%) hoặc sau 2 năm (45%). Tỷ lệ sản xuất ao ngập nước đặc biệt cao đôi khi được ghi nhận lên đến 860 kg cá/ 100 m2/ năm (bao gồm 75% C. jaensis, 20% C. gariepinus, và 5% Channa obscura cộng với Oreochromis sp.).
Các hố cá trê ở Bangladesh và Nê-pan
Cá trê châu Phi đã được đưa vào Nê-pan một cách không chính thức vào năm 1996-97 bởi các nhà buôn cá con đến từ Ấn Độ và Bangladesh. Việc nuôi cá trê Phi đã được mở rộng một cách nhanh chóng kể từ đầu những năm 2000. Gần đây, việc chăn nuôi trong các hố hoặc mương nhỏ đã được thúc đẩy bởi các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác. Ban đầu, các thử nghiệm nghiên cứu được thiết lập trong các mương có kích thước từ 1-2 m3. Hiện nay, kích thước của các ao/ mương tư nhân dao động từ 1 m2 đến 2,500 m2 mà không có thiết kế rõ ràng cụ thể. Theo các nguồn tin chưa được xác nhận, cá trê được vận chuyển toàn bộ từ Calcutta, Ấn Độ và từ Bangladesh, nhưng một số nông dân Nê-pan đã bắt đầu sản xuất cá con. Với tỷ lệ thả của cá con có trọng lượng 1 g ở mật độ 40-80 con/ m3, thu hoạch cá có trọng lượng từ 200-300 g với tỷ lệ sống sót từ 30-50% được ghi nhận sau 5-7 tháng nuôi. Điều này tương đương với tỷ lệ sản xuất ~ 40-60 tấn/ héc-ta. Con số này cao hơn một chút so với Bangladesh. Cá trê Phi được nuôi cùng với cá trê trắng (C. batracus) địa phương được cho ăn thức ăn thừa, bánh mì, bánh olive mù tạt, bột ngô và rác nhà hàng. Khoảng 300 tấn cá được cho là được sản xuất ở Nê-pan vào năm 2010. Tuy nhiên, loài ngoại lai, ăn thịt và săn mồi này là mối đe dọa đối với các loài cá bản địa của Nê-pan.
Các ao chăn nuôi ghép bằng ao đất
Cá trê Châu Phi giống (tốt nhất là các lô đồng nhất với trọng lượng cá thể >10 g) được thả vào ao nuôi thương phẩm cá rô phi sông Nin hỗn hợp giới tính. Mật độ nuôi cho phép cá rô phi con săn mồi hiệu quả là từ 0.5-1 con cá trê : 2 con cá rô phi. Mật độ thả thông thường vẫn dưới 5 con/ m2 (hoặc 50 g sinh khối ban đầu/ m2) nhưng có thể sử dụng tỷ lệ đặc biệt cao hơn (10-15 con/ m2) khi có sẵn máy sục khí cơ học. Các ao được bón phân và cho ăn được áp dụng từ 6 đến 11 tháng trước khi thu hoạch và đưa ra thị trường cá. Đối với người nông dân ở nông thôn chăn nuôi trên quy mô nhỏ thì việc thả giống được thực hiện trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 và thời điểm thu hoạch nhắm tới thị trường dành cho lễ hội Giáng sinh và Năm mới. Những ao như vậy được bón phân bằng cách sử dụng cũi ủ phân bao phủ 10 phần trăm bề mặt ao và thường xuyên được tải bằng những thức ăn thừa hữu cơ khác có sẵn trong trang trại (rác nhà bếp, trái cây thối, động vật chết trên đất, phân từ chăn nuôi trên đất liền, v.v.).
Trong và xung quanh các thành phố lớn, có rất nhiều ao nuôi thương phẩm có lịch thu hoạch quanh năm. Các ao cũng có thể được thu hoạch một phần và cá bán được trên thị trường được lựa ra bằng cách kéo lưới. Tỷ lệ sống sót thấp đã được quan sát thấy có liên quan đến tốc độ tăng trưởng không đồng nhất trong quần thể cá trê châu Phi, do những cá thể lớn hơn đang săn bắt những cá thể nhỏ hơn. Do đó, việc phân loại được thực hiện trong quá trình lấy mẫu trung gian và thu hoạch một phần nhằm đảm bảo các quần thể trong ao đồng nhất hơn. Các ao này cũng nhận được các loại phân hữu cơ (chủ yếu là phân gia cầm khô) để tạo thức ăn tự nhiên cho cá. Thức ăn ngoại sinh được cung cấp bao gồm các phụ phẩm công nghiệp xay riêng lẻ (lúa mì hoặc cám gạo, đồ ăn súc vật bằng bông vải) hoặc thức ăn viên hỗn hợp tiêu chuẩn (có đường kính từ 4-8 mm, chứa 28-35 phần trăm protein thô, thường không chứa protein động vật). Tỷ lệ cho ăn hàng ngày có thể cao tới 6 phần trăm trọng lượng ước tính của cơ thể cá trong vài tháng đầu nhưng sẽ giảm dần khi cá lớn lên đến 80 phần trăm. Vì cá trê châu Phi trưởng thành có thể thoát ra khỏi ao tiến về phía các vùng nước tự nhiên lân cận để đẻ trứng, nên phải lót hàng rào lưới mịn ở các bờ bên trong ao. Sản lượng trong các ao nuôi ghép cá rô phi - cá trê thay đổi từ 3-4 tấn/ héc-ta/ năm ở các ao nông thôn có mức nguyên liệu đầu vào thấp đến 10-25 tấn/ héc-ta/ năm ở các vùng ven đô thị với sức tải nguyên liệu đầu vào và khả năng theo dõi cao hơn.
Các bể và mương (Raceways)
Mặc dù hầu hết những người nuôi cá trê châu Phi là chủ ao nuôi, nhưng sản lượng lớn nhất của loài cá này ở Nigeria lại đến từ các bể và mương bê tông ven đô thị, nơi có ít những sự ràng buộc về nguyên liệu đầu vào hơn (cơ sở hạ tầng chăn nuôi, nguồn điện, cá giống, thức ăn chăn nuôi, nhân lực chuyên môn, khả năng tiếp cận thị trường). Sự phát triển của các hệ thống này có liên quan đến khả năng chống chịu của các loài, bao gồm khả năng chịu được nồng độ oxy hòa tan (DO2) thấp.
Trong bể bê tông có diện tích 4m x 3m x 1,3m điển hình ở sân sau của một người dân sống trong thành phố Nigeria, 400 con cá trê giống có trọng lượng từ 5-15 g được thả và cho ăn với chế độ ăn cân bằng trong 6 tháng. Nước được thay mới một hoặc hai lần mỗi tuần và sản lượng 300-600 kg/ vụ được ghi nhận, sản lượng này thay đổi tùy theo kỹ năng của người chăn nuôi cá.
Hệ thống tuần hoàn nước đã được phát triển trong những năm gần đây: các trang trại thành công về mặt kinh tế được báo cáo ở Nigeria nhưng nguồn thức ăn dạng nổi không sẵn có là một yếu tố hạn chế. Cá hiện được cho ăn thức dạng ăn nổi nhập khẩu từ 3-5 tháng, sau đó thì được cho ăn thức ăn viên tiêu chuẩn sản xuất trong nước cho đến khi thu hoạch. Những triển vọng tương lai cho thấy sự lạc quan, với sáng kiến hợp tác công tư hiện tại được hỗ trợ bởi các khoản vay phù hợp từ Ngân hàng Thế giới nhằm hỗ trợ ngành cá trê của Nigeria. Trong các hệ thống tuần hoàn nước (bao gồm một máy bơm điện và một bộ lọc sinh học nền nhựa), cá giống được thả ở mật độ 80-200 con/ m3 và tốc độ tuần hoàn nước là 2-10 lít/ giây. Tỷ lệ sản xuất >1000 kg cá/ m3/ năm đã được ghi nhận tại các hệ thống này.
Ở châu Âu (cụ thể là ở Hà Lan và ở Bỉ), cá trê châu Phi được sản xuất thông qua hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) có các đặc điểm chung sau đây. Nước ngọt lấy từ giếng khoan được lưu trữ và đun nóng trong các bể bê tông, bể sợi thủy tinh hoặc bể nhựa trong nhà. Nhu cầu nước trung bình là 0.15 m3/ kg cá. Cần ít đất. Nước nuôi được làm sạch bằng cách sử dụng các bộ lọc sinh học nền nhựa. Các hệ thống này có cường độ sản xuất cao, thu được từ 700 đến 1000 kg cá/ m3 khi sử dụng thức ăn cân bằng ép đùn cộng với việc thu hoạch nhỏ lẻ và thường xuyên. Sự khác biệt về kỹ thuật đáng kể duy nhất giữa những hệ thống này và những hệ thống được sử dụng ở các thành phố lớn Lagos và Ibadan của Nigeria là hệ thống này không cần làm nóng nhân tạo. Tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu thức ăn ép đùn và các cơ sở hạ tầng và thiết bị sản xuất linh tinh khác dẫn đến chi phí sản xuất tương đối cao đối với cá được nuôi trong các hệ thống như vậy ở các nước châu Phi cho đến nay (2010).
Lồng
Ở một số nước châu Á, cá trê châu Phi được nuôi trong lồng bằng cách sử dụng thức ăn cân bằng. Trong trường hợp này, cá rô phi thường được thả nuôi trong các vùng nước mở để ngăn ngừa hiện tượng phú dưỡng.
Related news
Bài hướng dẫn này từ Chương trình Thông tin Các loài Thủy sản nuôi của FAO cung cấp thông tin về vấn đề chăn nuôi cá trê Bắc Phi.