Bọ Xít Dài Hại Lúa
(Tên khoa học: Leptocorisa varicormis Fabr. Leptocoría acuta Thunb.)
Thuộc Họ: Coreidae Bộ: Hemiptera
Đặc điểm hình thái:
- Trứng hình bầu dục, có vết lõm ở giữa, mới đẻ có màu trắng đục, sau chuyển dần màu nâu.
- Bọ xít non có hình dáng giống trưởng thành, có màu vàng lục.
- Con trưởng thành có màu xanh pha màu vàng nâu, con cái có thân dài hơn con đực. Con cái ở cuối đốt bụng thứ 7-8 chẻ đôi thành hai phiến, giữa có một đường xẻ dọc. Con đực cuối đốt bụng tròn tù. Đặc trưng của bọ xít dài có đầu dài, hai phiến của cạnh đầu nhô ra trước như dạng ngón tay. Mát kép hình bán cầu, màu nâu đậm. Râu đầu có 4 đốt, đốt râu thứ nhất dài hơn đốt râu thứ hai theo tỉ số 3:2, đốt râu thứ hai dài hơn độ dài đầu + mảnh lưng ngực trước. Mảnh lưng ngực trước phía trước hẹp hơn phía sau. Phần da cánh phía mép trước màu lục, các phần khác màu nâu hạt chè, phần màng của cánh màu nâu đậm. Cuối ngọn và gốc đốt chày chân sau màu đen.
Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại:
Vòng đời của bọ xít dài khoảng 31,5-37 ngày
+ Giai đoạn trứng: 6-7 ngày.
+ Giai đoạn sâu non: 17-22 ngày.
+ Giai đoạn trưởng thành: 7-8 ngày.
Trứng đẻ thành ổ, từ 1-2 hàng dọc trên cả 2 mặt lá lúa (từ 10-15 quả). Đa số đẻ ở mặt trên và ngoài mép lá, có khi đẻ trên bẹ lá. Trứng nở vào buổi sáng. Bọ xít non mới nở sống tập trung quanh ổ trứng, nhưng chỉ sau 2-3 giờ là phân tán lên bông lúa để chích hút nhựa cây và sau 2-5 ngày lột các lần thứ nhất.
Con trưởng thành đẻ hoạt động giao phối vào ban ngày, nhất là lúc sáng sớm và chiều mát, buổi trưa nằm im. Một con cái đẻ trung bình từ 250-300 trứng, bọ xít trên lúa đẻ khoẻ hơn trên cỏ. Sau khi mưa, trời hửng nắng hoạt động mạnh. Cuối vụ mùa, trời mát hoạt động cả trưa và chiều. Bọ xít dài trưởng thành khi hút dịch ở bông lúa non nếu bị khua động thì rơi ngày xuống và lẩn trốn ngay lập tức. Bọ xít có tính hướng yếu đối với ánh sáng, thường bay vào đèn những đêm có mưa gió, con đực vào bẫy, bả nhiều hơn con cái. Bọ xít cũng ưa mùi hôi, tanh. Giai đoạn trưởng thành bọ xít dài qua đông ở trên cỏ ven rừng, trong vườn, ruộng có nhiều cỏ, thảm mục, ống tre, nứa trong rừng, rồi chuyển sang lúa chiêm xuân. Sau khi gặt lúa chiêm xuân, bọ xít lại chuyển sang các cây cỏ, lau sậy, mạ, lúa hè thu, lúa mùa.
Bọ xít non hay trưởng thành đều trích hút hạt lúa non làm cho hạt bị lép trắng, làm giảm phẩm chất và năng suất (có thể lên đến 50%).
Phòng trừ:
● Vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cỏ ở các bờ ruộng hoặc sơn bờ ruộng. Tập trung cấy đúng thời vụ trên từng vùng rộng lớn để có kế hoạch theo dõi, tổ chức phòng trừ. Có thể tổ chức đốt đuốc để bẫy bọ xít trưởng thành ra rộ, sử dụng các bó lá xoan ngâm nước giải một ngày, cắm lên các cọc bố trí quanh ruộng để tập trung tiêu diệt bọ xít...
● Sử dụng các loại thuốc hóa học lưu dẫn, có vị độc, tiếp xúc như Ofatox 400EC, Fastac 5EC...
Related news
Đặc điểm hình thái: - Trứng hình ống hơi cong ở giữa, một đầu hơi to màu vàng đậm, ổ trứng hình túi, trong đó trứng xếp xiên hai hàng. Trứng đẻ thành ổ từ 10-30 quả trong thân lúa, nếp gấp của lá lúa và trong những bụi cỏ trên mặt nước.
Sau hai năm thực hiện mô hình cấy và gieo thẳng lúa theo phương thức hàng rộng, hàng hẹp, nhiều nông dân Thái Bình đã thừa nhận hiệu quả của phương thức này, đó là: giảm 30% lúa giống, tăng năng suất 10%, giảm sâu bệnh và không còn dấu hiệu của bệnh vàng lùn, lùn sọc đen.
ĐBSCL có 1,6 triệu ha đất phèn, đặc biệt vùng đất phèn nặng do địa hình trũng, nước rút chậm, nếu chờ nước rút cạn để sạ gác sẽ lọt sang tháng 1/2006, rất bất lợi. Nên áp dụng phương pháp sạ ngầm để "cướp thời vụ", sạ sớm hơn được 2-3 tuần (sạ trong tháng 12/2005) sẽ rất có lợi: dễ đạt năng suất cao, chi phí nhẹ. Sau đây là 10 điểm cần lưu ý khi sạ ngầm ở ĐBSCL.
Giống là một trong những yếu tố quyết định đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa. Sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng từ 90-100 ngày, năng suất cao, chống chịu với một số sâu bệnh chính và có phẩm chất gạo tốt đủ tiêu chuẩn xuất khẩu như OM1490, OMCS2000, IR64, MTL250, VD95-20, AS996, OM3536, Lúa thơm, v.v.
Bắt bướm hay rầy trưởng thành bằng vợt hay bẫy đèn, ngắt ổ trứng các loại sâu và các lá có mang sâu. Duy trì và bảo vệ các sinh vật có ích như ếch nhái, nhện, bọ rùa, dế nhảy, muỗm muỗm, bọ xít mù xanh, bọ xít nước, kiến ba khoang, ong mắt đỏ, ong kén trắng, ong đen, ong xanh, ong đùi, nấm tua, nấm xanh, nấm phấn trắng, v.v. bằng cách không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu khi trên ruộng xuất hiện nhiều loài thiên địch. Nếu bắt buộc phải phun thuốc khi có dịch thì phải chọn loại thuốc chọn lọc ít độc đến thiên địch.