Bệnh ORT trên gà
Chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi gà ngày càng phát triển, kèm theo đó là diễn biến phức tạp của dịch bệnh, ảnh hưởng không nhỏ đến người chăn nuôi. Dù đã “nổi tiếng” ở Việt Nam từ 4 năm trước, nhưng ORT vẫn chưa có xu hướng “hết hot” đối với các trang trại.
Bệnh ORT là gì?
ORT trên gà là bệnh hô hấp cấp tính do vi khuẩn có tên là Ornithobacterium rhinotracheale gây ra. Vi khuẩn tác động trực tiếp lên đường hô hấp và phổi với các biểu hiện điển hình như: Gà khó thở, khẹc, ngáp, ho, chảy nước mắt mũi, phổi viêm có mủ và bã đậu hình ống. Bệnh có tính chất lây lan nhanh, đặc biệt là ở những vùng chăn nuôi gà tập trung. Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa hè và thời điểm chuyển giao giữa các mùa trong năm. Tuy nhiên, với phương thức chăn nuôi gà theo lối công nghiệp ngày nay thì bệnh ORT có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào trong năm.
Ðường lây lan, cách sinh bệnh
Bệnh ORT có thể gặp trên gà, gà tây ở mọi lứa tuổi, hay gặp nhất là ở lứa tuổi gà giò và gà lớn. Gà thịt thường mắc lúc 3 - 6 tuần, các loại gà khác thường từ 6 tuần tuổi trở lên.
Ở gà bệnh, vi khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale thường có trong phổi; Túi khí, chất tiết của đường hô hấp như nước mũi, nước mắt; Dịch nhầy khí quản và đặc biệt có nhiều trong cục mủ ở hai phế quản gốc.
Bệnh lây truyền từ gà bệnh cho gà khỏe qua tiếp xúc trực tiếp. Gà bệnh hắt hơi làm chất tiết đường hô hấp chứa mầm bệnh bắn ra ngoài không khí, từ đó lây cho gà khỏe bằng đường hít thở. Ngoài ra, con đường lan truyền bằng gió, dụng cụ chăn nuôi, xe vận chuyển, động vật mang mầm bệnh và con người cũng đóng vai trò lớn trong sự truyền lây của bệnh ORT.
Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gà chủ yếu qua đường hô hấp, sinh sôi và phát triển ở niêm mạc đường hô hấp sau đó đến cư trú ở cơ quan đích là phổi, hai phế quản gốc và gây nên bệnh tích đặc trưng của bệnh ORT ở đó.
Ở những vùng chăn nuôi gà tập trung theo hình thức công nghiệp, môi trường bị ô nhiễm (mùi phân, độ thông thoáng kém…) hay nuôi gà nhiều độ tuổi khác nhau trong cùng một khu vực luôn là điều kiện lý tưởng cho bệnh ORT bùng phát và lây lan với tốc độ nhanh.
Triệu chứng và bệnh tích
ORT là bệnh hô hấp cấp tính, thời gian nung bệnh ngắn, 1 - 3 ngày. Giai đoạn đầu thường chỉ thấy gà bệnh có triệu chứng hen nhẹ, thở khò khè và đôi lúc hắt hơi, vảy mỏ. Bệnh tiến triển rất nhanh, sau 1 - 2 ngày thấy gà giảm ăn, ủ rũ và ngày càng khó thở. Ðặc biệt ở giai đoạn này có thể quan sát thấy gà bệnh há mỏ để thở, thở đớp khí, có tiếng rít và ngáp. Sở dĩ gà có triệu chứng này là do bên trong khí quản và hai phế quản gốc có cục mủ bít kín khiến đường hô hấp hẹp đi nhiều, gây khó thở, dẫn tới chết.
Tỷ lệ mắc của bệnh ORT rất cao, 50 - 100%, tỷ lệ chết thường là 5 - 20%. Thiệt hại chủ yếu do bệnh gây ra là làm cho gà gầy yếu, lớn chậm, tỷ lệ đồng đều kém, tăng cao tỷ lệ loại thải và chi phí chăn nuôi. Bệnh thường ghép với một số bệnh khác như: Newcastle (gà rù), E.coli, CRD... làm biểu hiện của bệnh càng trầm trọng.
Bệnh tích của bệnh ORT tập trung ở đường hô hấp, các cơ quan khác hầu như không thấy biến đổi về mặt đại thể. Mổ khám gà chết ta thường quan sát thấy phổi bị viêm hóa mủ tập trung hoặc rải rác trên bề mặt, bên trong khí quản và hai phế quản gốc có mủ nhầy đặc hoặc rắn tùy theo giai đoạn và mức độ nặng nhẹ của bệnh. Túi khí viêm, có bọt khí và có thể có mủ màu vàng bên trong. Khí quản bình thường hoặc chỉ bị xung huyết nhẹ, có dịch nhầy trên bề mặt, màu sắc vẫn trong bình thường.
Chuẩn đoán
Bệnh ORT có thể chẩn đoán bằng việc quan sát triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mổ khám. Tuy nhiên, do bệnh có triệu chứng giống với bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB - Infectious bronchitis) nên cần chuẩn đoán phân biệt.
Ðể chuẩn đoán chính xác phải dựa vào việc phân lập và giám định vi khuẩn trong phòng thí nghiệm.
Do vi khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale có sức sống kém khi ra ngoài môi trường, nên khi nghi ngờ gà bị nhiễm bệnh phải gửi mẫu về phòng thí nghiệm càng sớm càng tốt. Vi khuẩn Ornithobacterium rhinotracheale có thể phân lập bằng thạch máu và xác định bằng các phản ứng sinh hóa. Việc kiểm tra bằng phương pháp PCR (polymerase chain reaction) cũng được ứng dụng trong công tác chẩn đoán bệnh và mang lại độ chính xác cao.
Trong phòng thí nghiệm: Vi khuẩn ORT được nuôi trên thạch máu có hình khuẩn lạc tròn, nhỏ bằng đầu đinh ghim, kích thước < 1 mm khi để tủ ấm 24 giờ. Ðể tới 48 giờ khuẩn lạc sẽ xấp xỉ 1 - 2 mm, tròn lồi, màu xám, có ranh giới rõ ràng, có thể có mùi đặc trưng giống như Axit butyric.
ORT là trực khuẩn gram âm, đa hình thái, không di động, không sinh nha bào. Nó thường xuất hiện với hình gậy ngắn, chắc đặc, dài khoảng 0,2 - 0,9 µm x 1 - 3 µm và thỉnh thoảng có hình sợi dài nhỏ hay hình gậy tập trung thành từng đám.
Phòng bệnh
Biện pháp hữu hiệu nhất phòng bệnh ORT cũng như tất cả các bệnh khác là chăm sóc tốt đàn gà, nâng cao sức đề kháng, đảm bảo môi trường chăn nuôi, giữ khí hậu chuồng nuôi được sạch sẽ, thông thoáng. Sát trùng chuồng trại thường xuyên, định kỳ bằng các thuốc sát trùng: Iodin, Benkocid, Omecide… hạn chế khí độc chuồng nuôi H2S, NH3, CO2, SO2…
Chăm sóc nuôi dưỡng gà tốt, không được để gà quá đói hoặc quá khát, đảm bảo ổn định chất lượng nguồn thức ăn, nước uống, mật độ nuôi phù hợp theo đúng lứa tuổi, giống gà.
Tăng cường sức đề kháng cho gà bằng các thuốc bổ như: B.comlex, T.Ungiaca, giải độc gan, điện giải thảo dược, Redmin... Thực hiện đầy đủ quy trình phòng bệnh cho gà bằng vaccine. Khống chế ảnh hưởng của thời tiết như: Chắn gió lùa, che mưa, giảm độ nóng vào mùa hè bằng việc xây chuồng hai mái, có hệ thống phun nước chống nóng lên mái.
Ðiều trị
Trong điều trị bệnh ORT, việc chăm sóc, bổ sung các vitamin, khoáng chất, giữ cho khí hậu chuồng nuôi, môi trường xung quanh được thông thoáng, sạch sẽ là rất cần thiết, giúp công tác điều trị bệnh có hiệu quả cao.
Dùng kháng sinh điều trị bệnh ORT là rất khó khăn bởi tính nhạy cảm của các chủng vi khuẩn. O. rhinotracheale có sức đề kháng chống lại kháng sinh dễ dàng như: Doxycycline, Enrofloxacin, Flumequine, Trimethoprim, Sulfamide và Tylosin... Mức độ nhạy cảm phụ thuộc vào việc sử dụng thường xuyên kháng sinh trên gia cầm. Một số kháng sinh có hiệu quả cao trong điều trị bệnh ORT: Timicocin, Amoxycillin, Chlortetracycline, Tiamulin, Lincomycin… Trong quá trình điều trị cần dùng thêm một số thuốc hỗ trợ long đờm, bổ gan, men tiêu hóa sống, vitamin và điện giải… giúp nâng cao hiệu quả.
Nguyên tắc điều trị trong đàn gà mới thấy một số con bị ORT thì phải chữa cho cả đàn. Ngoài uống cho cả đàn cần phải tiêm trực tiếp cho những con bị nặng. Những loại thuốc dùng để tiêm gồm: Vidan T, T. Enteron, Lincospec, Nigen... tiêm bắp 1 ml/5 - 6 kg gà, tiêm 1 lần/ngày, liệu trình điều trị 5 - 7 ngày.
Related news
Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã triển khai mô hình chăn nuôi gà Mía thả vườn theo hướng an toàn sinh học với quy mô 50.000 con trên địa bàn các huyện
Gà Đông Tảo càng già chân càng to và khả năng sinh sản cũng giảm dần theo độ tuổi. Gà Đông Tảo trưởng thành để làm kiểng nên chọn loại có chân to, đỏ
Để phân biệt được gà Đông Tảo thuần chủng và gà Đông Tảo lai là một điều không hề dễ dàng. Tuy nhiên vẫn có những đặc điểm để nhận biết như sau: