Bacillus Probiotics cải thiện chất lượng giống chống EMS tại Mexico
Tóm tắt
Việc thử nghiệm các hỗn hợp vi khuẩn Bacillus trong giai đoạn phát triển ban đầu của ấu trùng qua PL3 mang đến sự cải thiện rõ ràng ở tỷ lệ sống của vật nuôi. Nhìn chung, vào cuối giai đoạn thứ hai tỷ lệ tăng trưởng tăng tới PL15, tiếp tục sử dụng khánh sinh giúp tăng số lượng con giống hậu ấu trùng cũng như kích thước của vật nuôi.
Giai đoạn hai nuôi thử diễn ra trong raceways của trại giống Fitmar |
Tỷ lệ tử vong sớm do hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPN) bùng phát một cách mạnh mẽ gây tác động nghiêm trọng tới các nhà sản xuất tôm giống ở các nước Châu Á và Mexico. Từ các báo cáo chỉ ra rằng tình trạng này có liên quan mật thiết đến việc quản lý đàn giống bố mẹ chẳng hạn như việc cho ăn giun bị ô nhiễm, các nhà quản lý đang tập trung vào việc đổi mới chất lượng ấu trùng.
Đầu tư vào việc nâng cao chất lượng ấu trùng là một biện pháp phù hợp cần thiết để tiếp cận toàn diện và đạt được tỷ lệ sản xuất tôm mong muốn thông qua sự kết hợp của các biện pháp an toàn sinh học, thả các con giống hậu ấu trùng khỏe mạnh và quản lý các điều kiện nuôi bằng cách kiểm soát dinh dưỡng/lượng thức ăn, trầm tích, chất lượng nước và các cộng đồng vi sinh vật.
Xử lý EMS
Tại Mexico, viện nuôi trồng thủy sản INVE đang đánh giá các hoạt động của một chất diệt khuẩn thương mại chứa khuẩn Bacillus để chống lại EMS bằng cách cô lập độc tính của khuẩn Vibrio parahaemolyticus nhờ vào đội ngũ các bác sĩ Bruno Gomez - Gill tại Centro de Investigación en Alimentación y Desarrollo (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Thức Ăn). Nói một cách cụ thể, một kháng sinh điều chế ra sẽ ức chế sự tăng trưởng của 10 khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.
Các chủng vi khuẩn Bacillus đã được chọn vì khả năng ức chế mầm bệnh, có hoạt động trao đổi chất trong ruột tôm và nguồn nước tích cực, phân huỷ các chất thải hữu cơ nhanh và cải thiện khả năng tiêu hóa thức ăn.
Việc thực tập chăm sóc con giống để đạt đến một kích thước lớn hơn trước khi thả vào ao nuôi được khuyến khích mạnh mẽ kể từ khi dịch EMS bắt đầu lây sang người. Điều này cũng chưa giải quyết triệt để được vấn đề do EMS/EHPN mang lại. Tuy nhiên, với việc áp dụng các biện pháp an toàn sinh học và cho ăn phù hợp, cũng như việc quản lý nguồn nước, giai đoạn ấp giống này sẽ góp phần cải thiện chất lượng của các con giống hậu ấu trùng. Dù cho là trong ao hay mương, việc tuân theo các quy định về ấp giống đã mang lại hiệu quả, cho phép kiểm soát tốt hơn và ổn định các điều kiện tăng trưởng, thu ngắn chu kỳ vật nuôi và làm tăng số mùa vụ trong năm.
Cách thức tiến hành
Đầu năm 2014, một cuộc thử nghiệm để đánh giá lợi ích của một hỗn hợp chủng vi khuẩn Bacillus trong trang trại nuôi và ấp giống đã được tiến hành trong các điều kiện thương mại tại trại giống Fitmar ở Sinaoa, Mexico. Tỷ lệ con giống sau giai đoạn ấu trùng sản xuất tại đây đã tăng từ 615 triệu trong năm 2010 lên 1.6 tỷ con trong năm 2013.
Trong các trại giống, việc nuôi ấu trùng được chia làm 2 giai đoạn và được xây dựng từ năm 2009. Ở giai đoạn đầu tiên, ấu trùng N5 từ cùng một bể đẻ trứng được thả vào 2 ao kiểm soát và 2 ao xử lý ở mật độ 6 triệu con/30 m3. Sau 11 ngày, các con giống hậu giai đoạn ấu trùng P.L 3 hoặc P.L 6 biến thành 2, mương 60 m3 sẽ cho phép con tôm giống phát triển tới mức P.L 15 trong chu kỳ sản xuất 2 giai đoạn. Các chế phẩm vi sinh sẽ được sử dụng trong cả 2 giai đoạn.
Trong giai đoạn đầu tiên, bể nuôi được làm đầy 50% nước, sau đó là tảo cho đến khi đầy bể. Ở đầu giai đoạn thứ 2, các mương sẽ được đổ đầy nước và không trao đổi nước trong suốt chu kỳ.
Để tăng cường hệ thống miễn dịch của ấu trùng, một sản phẩm thức ăn bổ sung sẽ được cung cấp vào cuối giai đoạn đầu tiên và trong suốt giai đoạn thứ hai. Các chế phẩm sinh học thương mại được cho vào trong các bể kiểm soát và mương kiểm soát. Hỗn hợp khuẩn Bacillus được dùng trong 2 bể xử lý và mương. Hỗn hợp này được sử dụng khi ấu trùng được thả vào bể và con giống hậu ấu trùng được thả trong mương để đạt tới mức độ đậm đặc 5 x 105 CFU/ml.
Trong giai đoạn đầu tiên, hỗn hợp khuẩn Bacillus được cung cấp hằng ngày nhằm đạt được một mức độ đậm đặc cuối cùng là 1 x 105 cfu/ml. Ở giai đoạn 2 của quá trình nuôi giống, hỗn hợp như vậy được rải bao quát để đạt mức 1 x 108 CFU/ml.
Kết quả
Việc sử dụng một cách chọn lọc hỗn hợp từ khuẩn Bacillus đã mang đến sự cải thiện rõ rệt tỷ lệ sống. Trong giai đoạn nuôi đầu tiên, tỷ lệ sống tăng từ 32 lên 36% (hình 1)
Cuối giai đoạn 2, sự cải thiện trong tỷ lệ sống dẫn đến việc tăng tỷ lệ tôm có thể được thu hoạch (hình 2). 1.3 triệu con giống hậu ấu trùng đại diện cho tỷ lệ tăng 39% về sản lượng. Hơn thế nữa, hỗn hợp từ khuẩn Bacillus còn giúp cho con giống hậu ấu trùng lớn hơn đến 10% (hình 3).
Các ứng dụng
Cuộc thử nghiệm cho thấy lợi ích của việc sử dụng một cách chọn lọc khuẩn Bacillus trong việc chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio ở cả 2 giai đoạn đầu và sau trong sản xuất ấu trùng. Mặc dù không có số liệu về lượng vi sinh vật trong cuộc thử nghiệm này, một số chỉ số đã được cải thiện: ruột bị nhiễm bịnh, ức chế và làm giảm tác hại của vi khuẩn gây bệnh Vibrios và tăng hệ thống miễn dịch của vật nuôi.
Nguồn: Global Aquaculture Alliance, tháng 9- tháng 10/2014
Các tác giả:
J. Jaime Munoz M - INVE Aquaculture México, S.A. de C.V.
F. Marino Pinzon M & Rodolfo Rivera F - Proveedora de Larvas, S.A. de C.V.
Olivier Decamp, Ph.D - INVE Aquaculture, Tambon Nong Lum, Amphoe Wachirabarami, Phicit, Thailand.
Biên dịch: VÂN ANH
Một khách hàng của 2 LÚA ở Bình Đại - Bến Tre đang thực nghiệm quy trình "Tắm trắng" cho tôm post, công nghệ do Tiến sĩ người Singapore đưa ra. Công nghệ này đã ứng dụng tại các nước Indonexia, Ấn Độ, Malaysia, Việt Nam. Công nghệ này sẽ tiêu diệt những con tôm có sức đề kháng yếu sau khoảng 2 tuần nuôi dưỡng trong bể. Quy trình thực hiện là đưa tôm P.L4 vào một bể nhỏ, chúng được cho ăn bằng một loại thức ăn đặc biệt, trong vòng 2 tuần, những con tôm yếu, sức đề kháng kém sẽ chết, những con tôm khỏe chúng trở nên rất khỏe, bơi nhanh, tôm trong suốt. Số lượng tôm post bị chết phụ thuộc vào chất lượng tôm post giống, trung bình sẽ loại bỏ 20% - 30%. Sau khi đã loại bỏ những con tôm yếu, sức đề kháng thấp, những con tôm khỏe mạnh còn lại được đưa ra nuôi thương phẩm phát triển rất nhanh. Giá thành công nghệ này khá cao. 2 LÚA sẽ tiếp tục cập nhật công nghệ này trong bài viết sau. |
Tags: EMS trên tôm, hội chứng tôm chết sớm, bệnh chết sớm trên tôm, hội chứng hoại tử gan tụy, EMS/AHPN, tắm trắng tôm
Related news
Tôm rảo (Metapenaeus ensis) có nhiều ưu điểm (tính thích nghi cao, thời gian nuôi ngắn, rộng muối, rộng nhiệt và có thể nuôi quanh năm). Nắm bắt được quy trình sản xuất giống sẽ giúp chủ động về con giống cho vụ nuôi, giảm sự lệ thuộc vào con giống tự nhiên.
Cá tra, basa nuôi trong ao đất phải đối mặt nhiều vấn đề về môi trường sống, nhất là ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Trong thời điểm ngành cá tra đang gặp khó, cần có những giải pháp quản lý tốt về thức ăn, thuốc, hóa chất và cách nuôi hiệu quả, giúp nâng cao năng suất, sản lượng.
Khi nuôi tôm sú bán thâm canh, người nuôi cần phải chú ý phát hiện và điều trị một số bệnh thường gặp. Phòng và trị bệnh kịp thời sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả sản xuất.
Ngày 28/7/2011, Bộ NN&PTNT ban hành Thông tư quy định các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên tôm nuôi, bao gồm cả tôm giống và tôm thương phẩm.