Tiếp Sức Cho Ngành Nghề Nông Thôn

Ngành nghề nông thôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, nhất là với tỉnh ta trên 83% dân số sống bằng nghề nông. Càng ý nghĩa hơn khi cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đang nỗ lực xây dựng nông thôn mới, đa dạng hóa ngành nghề để giải quyết việc làm, tăng thu nhập.
Thủy điện Sơn La tích nước, ruộng ngập hết nên gia đình tôi chuyển sang nghề đan cót, làm tăm giang kiếm thêm thu nhập, trang trải cuộc sống. Nếu làm việc tích cực, mỗi ngày cũng được 70.000 - 100.000 đồng/người. Để có nguyên liệu duy trì nghề, tổ hợp tác đã đề nghị với chính quyền địa phương nhận khoanh nuôi, trồng rừng để tạo vùng nguyên liệu về lâu dài.
Trong khi nhiều hộ dân tái định cư trên địa bàn TX. Mường Lay "bám" nghề đan cót, tăm giang để tăng thu nhập, thì chị em phụ nữ dân tộc Mông, thôn Tà Là Cáo, xã Sính Phình trên cao nguyên đá Tủa Chùa lại phát triển nghề thêu thổ cẩm truyền thống.
Nếu như trước đây, nghề thêu thổ cẩm chỉ đơn thuần phục vụ nhu cầu may mặc cho các thành viên trong gia đình thì nay với sự giúp đỡ của các tổ chức, nhiều sản phẩm thêu thổ cẩm, như: vòng tay, vòng cổ, túi đeo, dây đeo kính, dây đeo điện thoại, vỏ gối, ví... được làm ra từ đôi tay khéo léo không chỉ được bày bán ở các quầy hàng, hội chợ trong tỉnh mà còn vươn xuống tận thủ đô Hà Nội có mặt ở khá nhiều gian hàng phục vụ khách du lịch.
Nhờ có nghề mà thu nhập của chị em thôn Tà Là Cáo đạt từ 1 - 1,5 triệu đồng/ người/tháng, tăng thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo.
Cơ hội cho ngành nghề nông thôn phát triển
Các ngành nghề nông thôn hoạt động khá đa dạng trên nhiều lĩnh vực: sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan; chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản... đã góp phần tích cực tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương. Toàn tỉnh có khoảng 2.500 cơ sở sản xuất chế biến với tổng số lao động hơn 5.400 người.
Quy mô phát triển ngành nghề nông thôn khá đa dạng từ hộ gia đình đến những doanh nghiệp vừa và nhỏ; từ tổ hợp tác đến hợp tác xã... Tuy nhiên việc mở rộng quy mô sản xuất của các ngành nghề gặp khá nhiều khó khăn. Các ngành nghề gần như không có sự liên kết, quá trình tổ chức sản xuất còn phân tán, nhỏ lẻ, khép kín; trình độ quản lý, tay nghề lao động, trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý của các chủ hộ, cơ sở ngành nghề nông thôn còn hạn chế.
Mặt khác, các ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh chủ yếu là chế biến, sản xuất thô nên khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế, chưa nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng về mẫu mã, chất lượng. Cùng với đó là khó khăn về thiếu nguyên liệu, thiếu vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định... là nguyên nhân ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của ngành nghề nông thôn.
Từng bước tháo gỡ những khó khăn để ngành nghề nông thôn phát triển, ngày 8/12/2014, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 947/QĐ - UBND về phê duyệt quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Quan điểm của tỉnh là ưu tiên phát triển các ngành nghề truyền thống, đồng thời phát triển thêm ngành nghề mới, làng nghề mới, những ngành nghề sử dụng nhiều lao động và gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới. Trong đó, tập trung phát triển một số ngành nghề chính, như: Chế biến nông lâm sản, dệt may, mây tre đan, mộc, sửa chữa, cơ khí nhỏ, vận tải... Đặc biệt, các ngành nghề nông thôn được phát triển gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng thời kỳ của tỉnh và gắn với phát triển du lịch, bảo tồn và phát triển những di sản văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa các dân tộc.
Với mục tiêu đặt ra đến năm 2020, giá trị sản xuất của ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh đạt hơn 1.851 tỷ đồng (tăng gấp 2,91 lần so với năm 2010), góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp; giải quyết việc làm cho khoảng 36,5 nghìn lao động, nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn.
Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài việc quy hoạch phát triển theo nhóm ngành, sản phẩm chủ yếu, tỉnh ban hành nhiều giải pháp về cơ chế chính sách khuyến khích hỗ trợ để các ngành nghề nông thôn phát triển; đặc biệt là chính sách vinh danh, công nhận làng nghề, nghệ nhân; áp dụng linh hoạt Nghị định số 210/2013/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Cùng với đó là đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm ngành nghề nông thôn để người dân yên tâm phát triển sản xuất.
Có thể bạn quan tâm

Năm 1984, rời Đà Lạt, ông Ngô Tuất (1945) xuống thôn Hương Thủy, xã Hương Lâm, huyện Đạ Tẻh với quyết tâm phát triển sản xuất để nuôi 4 con nhỏ trưởng thành. Buổi đầu vợ chồng ông bà làm ruộng lúa, hoa màu, đậu đỗ và trồng dâu nuôi tằm trên diện tích vườn 3,1 ha tự khai phá mà có.

Mỗi tàu công suất 500CV tiêu thụ từ 70 đến 75 nghìn lít dầu cho mỗi chuyến đi biển 3 tháng, khi giá dầu tăng thêm 500 đồng một lít, chủ tàu phải đội thêm chi phí gần 38 triệu đồng mỗi chiếc. Trong ảnh: Tàu đánh bắt xa bờ cập cảng Cát Lở lấy dầu, nước đá đi biển.

Theo số liệu thống kê, đến năm 2012 Đà Lạt có 9.451ha đất canh tác. Điều đáng lưu ý là từ năm 2012 đến nay, diện tích đất nông nghiệp của Đà Lạt không còn mở rộng, thậm chí là đang giảm dần vì quá trình đô thị hóa.

Ngày 25/6/2014, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và Dịch vụ Thủy sản Việt Nam đã ký Quyết định số 09/QĐ-FITES, chứng nhận VietGAP 04 vùng nuôi của Công ty TNHH Hùng Cá, với tổng diện tích mặt nước nuôi là 104,8 ha, sản lượng dự kiến 41.800 tấn

Kinh tế thời hưng thịnh, sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi (TACN) là nghề kiếm được “lãi khủng”. Nay, kinh tế khó khăn, ngành kinh doanh này phải chật vật, cạnh tranh với nhau bằng nhiều chiêu thức để tồn tại.