Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Săn trâu bò hoang

Săn trâu bò hoang
Ngày đăng: 10/08/2015

Đối diện đàn thú dữ

Ông Trương Văn Huy, Trưởng thôn Khe Sòng, giải thích cho chúng tôi cái “nguyên cớ” của đàn trâu hung dữ sinh sôi trên núi rừng bao la của xã Dương Hòa như thế này: Tập quán chăn thả trâu, bò tại địa phương từ nhiều đời nay chủ yếu là “gửi” trâu trên rừng. Một vài tuần hoặc vài tháng chủ trâu bò mới lùa về nhà một lần để chăm sóc, kiểm đếm số đàn. Lâu dần, một số trâu, bò tách đàn, sinh sản và trở thành hoang hóa do thiếu bàn tay chăm sóc của con người. Từ sau khi lòng hồ thủy lợi tích nước, các vùng đất vốn là bãi chăn thả truyền thống như Khe De, Mù Mù, Nước Nóng trở nên cách biệt với đất liền, số trâu bò bị “bỏ rơi” bên kia lòng hồ, không theo gia chủ “di dân” về với vùng tái định cư mới trở nên hoang hóa rất nhiều.

Làm nghề “săn” trâu bò hoang lâu nhất ở vùng đất Dương Hòa có lẽ không ai bằng ông Nguyễn Hà (55 tuổi, thôn Khe Sòng). Người ta biết đến ông không chỉ biệt tài chinh phục gia súc hoang dã mà bởi những chiến tích hiểm nguy cận kề cái chết. Vừa đi từ rừng ra, trên tay còn cầm cuộn cáp thòng lọng lủng lẳng móc sau cán rựa, ông Hà kể về những “chiến tích” chinh phục loài thú dữ của mình: “Làm nghề mấy chục năm, tui có một nguyên tắc là bắt trâu bò thì phải có hợp đồng hẳn hoi. Hợp đồng xã chứng thực mới làm. Chủ trâu phải khai đúng số lượng đàn, trâu bò thường trú ngụ ở tiểu khu nào, đặc điểm ra sao, không có tranh chấp với những chủ trâu khác thì lúc đó mới lên rừng đặt bẫy bắt”.

Ông Hà có biệt tài bắt trâu, bò không bao giờ bị chết, bắt trọn cả đàn nên nhiều chủ thường tìm đến ông để hợp đồng. Suốt vùng đất từ Khe Dài qua Khe Rơm thuộc tiểu khu 168 hiện nay là “thánh địa” của trâu, bò hoang còn sót lại. Để săn loài gia súc này, sau khi hợp đồng, thống nhất ăn chia xong xuôi, ông Hà thường gọi thêm 4 - 5 thợ rừng có sức khỏe tốt lên rừng “dàn trận” bắt trâu. Họ đi nhiều ngày trên rừng để thám thính nơi trú ngụ và “tuyến đường” đàn trâu, bò di chuyển. Những dấu chân trâu, bò hoang thường cho họ biết số lượng đàn và hướng đi để đặt bẫy. Cứ mỗi đàn trâu từ 8 - 10 con thì phải đặt 20 cái thòng lọng dọc trên tuyến đường chạy của chúng. Thòng lọng là loại cáp to bằng ngón tay áp út, có nút thắt làm sao khi mắc vào cổ con vật không xiết chết. Thòng lọng thường được đặt rộng 1m, theo khe suối, cố định vào những thân cây to, cách mặt đất chừng 40 cm và cách nơi đàn trâu bò trú ngụ chừng hơn 100m.

Bố trí bẫy xong xuôi, 4 - 5 thợ rừng tìm cách xua đuổi từ trên cao xuống. Thấy động, trâu bò rừng cứ thế nhắm thẳng đường quen thuộc mà chạy và mắc vào thòng lọng đã bố trí sẵn. Đàn nghé con sẽ bị những thợ rừng móc dây thòng lọng vào sào để bắt giữ. Thường khi trâu, bò di chuyển cả đàn thì bắt “trọn ổ”, rất ít khi có con chạy thoát. Một nguyên tắc đối với các thợ săn phải tuân thủ là luôn lùa trâu, bò về hướng bẫy được đặt ở khe suối, đầm lầy nhằm bắt sống chúng. Nếu bắt ở vùng núi cao, khi trâu dính bẫy, do quá “hăng máu” chúng dễ lao đầu vào đá, gốc cây để tự chết!

Tâm sự về chuyện nghề, ông Hà cho biết, với những thợ săn trâu, bò hoang, “ớn” nhất là bắt loài trâu đực trưởng thành. Bởi, đây là loài rất hung dữ và có sức khỏe phi thường, thợ săn có thể “nộp mạng” nếu tính toán sai đường chạy của trâu. Với trâu đực, các thợ săn thường bố trí trên đường chạy 6 cái thòng lọng để phòng khi trâu phá được bẫy. Phía sau người thợ săn phải có cây to để phòng trừ bất trắc. Khi xác định được trâu đực trú ngụ ở vùng nào thì trưởng nhóm thợ săn phải đứng trực diện, cách con vật chừng 50m và dùng tiếng động để “dụ” trâu xông tới đánh. Trâu vượt qua được lớp bẫy này thì có lớp bẫy khác. Nếu trâu phá hết bẫy thì người thợ săn phải nhanh chân nhảy lên cây tìm đường thoát thân. Thường săn trâu đực được gia chủ trả công rất cao, có khi chia 50% “thành phẩm”.

Nghề nguy hiểm

Vén tấm áo với những vết sẹo chằng chịt ở lưng, tay, ông Hà kể về lần may mắn thoát chết: Năm 2004, ông Hà cùng đồng nghiệp Phan Tuấn và một số thợ rừng hợp đồng bắt trâu cho một người dân ở thôn Hộ. “Đối tượng” là con trâu đực hơn 10 năm tuổi, đã “hóa tinh” trên rừng, dữ như loài bò tót. Trâu đực ở lâu trên rừng thường mài cặp sừng vào đá nên rất sắc nhọn. Sau khi thám thính đường di chuyển, tập tính của con trâu đực, nhóm thợ quyết định đặt 3 lớp bẫy thòng lọng bằng cáp ở Khe Cát. Cất đặt bẫy xong xuôi, ông Hà đứng ra dụ con trâu đực vào luồng chạy của bẫy. Trâu bị thách thức liền hăng máu phóng khỏi lùm cây lao về phía bẫy. Ba lớp bẫy đều bị con trâu đực quá khỏe dựt phăng cả. Lúc đó, anh Tuấn và nhóm thợ rừng đã nhảy lên những góc cây, mỏm đá gần đó để thoát thân. Ông Hà dù đã chạy bật ra khỏi luồng đi của trâu theo đường “dích dắc” nhưng vẫn không kịp. Con trâu điên cuồng lao tới quật tơi tả tấm thân ông Hà với vô số thương tích. Ông Hà nhớ lại: “Lúc đó mình chỉ biết ôm đầu giả chết mà thôi, sau đó thì ngất lịm lúc nào không hay. Lúc tỉnh dậy thì đã thấy mình ở nhà với áo quần rách như xơ mướp. Xương mạn sườn bị chớp gãy. Bữa đó, tưởng mình không qua khỏi”.

Bắt trâu đực đã khó, đưa chúng từ rừng về giao cho chủ theo hợp đồng còn khó hơn bởi loài trâu quá khỏe. Năm 2007, ông Hà cùng nhóm thợ theo dõi đàn trâu 6 con tại khu vực Khe Dài. Đàn trâu của ông Hợp (trú Vỹ Dạ) hợp đồng ăn chia với nhóm thợ. Sau khi đặt bẫy bắt được con trâu đực đầu đàn, cả nhóm luồn rừng đưa trâu về. Ông Hà kể: “Thường bắt được trâu mình bố trí 3 người cột dây ở chân để giữ trâu đi sau và 2 người xỏ mũi trâu đi trước. Hôm đó nhóm người đi sau không đủ sức nên bị trâu giựt mất dây. Mình đi trước gần trâu nhất nên bị tấn công trực diện. May lần đó trâu quật chỉ bị chấn thương nhẹ ở mạn sườn và rách da phần mềm nên mới thoát chết.” Cứ tưởng sau đợt đó, ông Hà cùng nhóm thợ bỏ nghề. Thế nhưng, như lời ông nói, nghề nào nghiệp nấy. Khi cái nghiệp đã vận vào thân thì mình phải theo vậy.

“Hiện trên địa bàn xã Dương Hòa có khoảng 600 con trâu, bò chăn nuôi đa số theo tập quán thả rông trên rừng. Trong đó, có khoảng 100 con trâu, bò hoang trên rừng chưa xác định được chủ. Nhiều năm qua, “xung đột” giữa chăn nuôi và trồng trọt đang là bài toán đau đầu tại địa phương bởi không có vùng chăn thả. Hiện, Dương Hòa đang vận động bà con nuôi bán thâm canh, quy hoạch vùng trồng cỏ để nuôi gia súc”, Ông Lê Văn Thức, Phó Chủ tịch UBND xã Dương Hòa cho biết.


Có thể bạn quan tâm

Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Giun Quế Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Giun Quế

Anh Lê Thanh Học người dân tộc Mường ở xóm Múc, xã Tam Thanh, huyện Tân Sơn bắt đầu nuôi giun quế từ tháng 2-2014. Sau khi anh cùng các hội viên Câu lạc bộ sinh kế cộng đồng xã Tam Thanh đến thăm trang trại nuôi giun quế ở Đông Anh - Hà Nội thì anh mới biết tới nghề nuôi giun này.

23/01/2015
Thu Trên 14 Tỷ Đồng Từ Hồng Không Hạt Thu Trên 14 Tỷ Đồng Từ Hồng Không Hạt

Qua kiểm tra, đánh giá giai đoạn 2005-2010 thành phố Việt Trì đã khuyến khích khôi phục, phát triển lại; huyện Phù Ninh lập dự án trồng hồng không hạt Gia Thanh. Giai đoạn 2012-2015 UBND tỉnh phê duyệt dự án trồng mới 30 ha hồng không hạt trên địa bàn huyện Phù Ninh, đến nay đã trồng được 13 ha.

23/01/2015
Hiệu Quả Từ Giống Mới Hiệu Quả Từ Giống Mới

Vụ mì vừa qua bà Mai cùng một số hộ nông dân khác ở Nghĩa Điền sử dụng giống mì NA1 để trồng trên đất mì cũ. So với giống mì KM94 mà nhiều hộ dân trồng trước đó, giống mì NA1 mới này cho năng suất bình quân lên đến 40 tấn/ha. Bà Mai cho biết thêm, so với thu nhập 7 triệu đồng/vụ mì từ giống KM94 thì khi chuyển sang trồng mì NA1, vụ mì năm 2014 thu nhập lên đến 12 triệu đồng/ha.

24/01/2015
Xây Dựng Nông Thôn Mới Khó Khăn Ở Những Xã Giáp Ranh Xây Dựng Nông Thôn Mới Khó Khăn Ở Những Xã Giáp Ranh

Nhiều xã khi còn thuộc huyện Sơn Tịnh đã được phê duyệt về “Quy hoạch xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020”. Tuy nhiên mọi nguồn vốn đầu tư... vẫn còn trên giấy, dẫn đến khối lượng công việc không thể thực hiện được, ứ lại, dồn qua năm sau. “Đến khi sáp nhập vào TP.Quảng Ngãi, cấp trên yêu cầu phải thực hiện lại Đề án trong khi số tiền thuê tư vấn thực hiện đề án của những năm trước vẫn còn nợ”, ông Văn Nguyên - Phó Chủ tịch UBND xã Tịnh Thiện bày tỏ.

24/01/2015
Ngành Nông Nghiệp Chưa Có Những Chuyển Biến Thực Sự Ngành Nông Nghiệp Chưa Có Những Chuyển Biến Thực Sự

Năm 2014 được đánh giá là năm thắng lợi của ngành nông nghiệp Quảng Ngãi. Giá trị sản xuất toàn ngành đạt hơn 3.294 tỷ đồng, vượt kế hoạch và tăng 4,3% so với năm 2013. Tổng sản lượng lương thực đạt 479.554 tấn, bằng 101,3% kế hoạch năm và tăng 2,3% so với năm 2013.

24/01/2015