Mất Thị Trường Trung Quốc, Nghề Dệt Thảm Xơ Dừa Gặp Khó

Làng nghề dệt thảm xơ dừa Cửu Lợi, xã Tam Quan Nam (Hoài Nhơn - Bình Định) đang gặp khó do các đối tác Trung Quốc bỏ đi.
Nghề dệt thảm xơ dừa ở Cửu Lợi bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ trước. Thời điểm hưng thịnh của làng nghề là những năm sau giải phóng, khi HTX thảm xơ dừa Tam Quan Nam còn hoạt động mạnh mẽ. Bấy giờ thảm sản xuất chủ yếu xuất sang thị trường Liên Xô (cũ).
Trong giai đoạn 1993-1998, sau một thời gian “im hơi lặng tiếng”, làng nghề thảm xơ dừa lại nhộn nhịp trở lại. Nhưng chỉ 5 năm sau đó, hoạt động của làng nghề có dấu hiệu chững lại, các khung dệt chỉ hoạt động cầm chừng. Đến giai đoạn 2003-2005, nghề dệt thảm xơ dừa lại bùng lên mạnh mẽ. Mặt hàng ưa chuộng là thảm có kích thước nhỏ (35x55cm) và thảm hình bán nguyệt.
Thị trường tiêu thụ mạnh nhất là Indonesia và Đức. Đến năm 2007, các đối tác ĐôngÂu lần lượt từ chối hàng thảm xơ dừa của ta, làng nghề lại rơi vào tình trạng khốn đốn.
Năm 2008, tỉnh Bình Định có nhiều chính sách khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống, nhờ đó nghề dệt thảm xơ dừa sống lại, đối tác lúc này chủ yếu là thị trường các nước Đông Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc...
Nhưng gần đây, các đối tác Trung Quốc bỏ đi hoặc ép giá, vì thế hàng tồn đọng nhiều, làng nghề gặp khó.
Ông Huỳnh Minh Ngọc, chủ cơ sở dệt Ngọc Chung, cho hay: “Từ khi đứt mất thị trường Đông Âu, cơ sở của chúng tôi chủ yếu bán cho Trung Quốc, Hàn Quốc. Từ đầu năm tới nay, Trung Quốc không còn nhập hàng đều đặn như trước khiến cơ sở đứng trước nguy cơ đóng cửa”.
Cũng theo ông Ngọc, bình quân mỗi tháng cơ sở của ông xuất đi Trung Quốc 3 container thảm, khoảng 6.000 tấm nhưng nay mỗi tháng ông chỉ xuất được 1 container đi Hàn Quốc.
Trước những khó khăn của làng nghề, các cơ quan chức năng cần sớm cho giải pháp để khôi phục, giữ gìn, phát triển, điều quan trọng là tìm thị trường mới cho sản phẩm, tránh lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc.
Có thể bạn quan tâm

Đến xã Triệu Đông (Triệu Phong, Quảng Trị), hỏi anh Nguyễn Thọ Biền thì ai cũng biết, vậy nhưng gặp được anh lại không dễ, bởi anh luôn bận rộn với trang trại nuôi hơn 1.400 con vịt của mình. Đứng trước khu chuồng trại với hàng nghìn con vịt đẻ và 2 lò ấp trứng quy mô, anh Biền cho chúng tôi biết, cách đây gần chục năm, khi chưa có điều kiện chăn nuôi rộng rãi như hiện nay, gia đình anh đã tận dụng vườn ao của nhà để nuôi vịt đẻ. Nhận thấy việc chăn nuôi thuận lợi, đem lại hiệu quả kinh tế cao nên gia đình anh đã mạnh dạn đề xuất với địa phương cho chuyển đổi đất trồng lúa kém năng suất sang mô hình trang trại để đầu tư nuôi vịt đẻ với số lượng lớn.

“Đất đai là vốn quý của người nông dân, tuy nhiên không nhất thiết có nhiều đất thì họ mới làm giàu được”. Đó là khẳng định của ông Nguyễn Trọng Oánh ở ấp Cầu Rạt, xã Tân Phước (Đồng Phú), có 14 năm kinh nghiệm trồng rau cho thu nhập cao.

Do tình hình xuất khẩu cá tra gặp khó khiến giá cá tra tại ĐBSCL liên tục giảm nên người nuôi cá lỗ từ 1.000 - 2.750 đồng/kg tùy theo từng thời điểm của quí 1-2013. Vì thế, Hiệp hội cá tra Việt Nam khuyến cáo người nuôi cá tra chỉ nuôi khi có hợp đồng tiêu thụ với các nhà máy chế biến thủy sản.

Là một sĩ quan quân đội, năm 1990 ông Hà Văn Hảo xuất ngũ và quyết định rời thành phố Hồ Chí Minh đến ấp 3, xã Lộc Hưng (Lộc Ninh) lập nghiệp. Sau nhiều năm vất vả tưới nước cho cây trồng bằng phương pháp thủ công, ông đã tìm hiểu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật làm hệ thống tưới nước tự động.

Chị Hà Thị Quy ở thôn Làng Mạ, xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình nuôi gà với ý định làm giàu chứ không phải là xoá đói nghèo. Chị là giáo viên nghỉ hưu, con cái đã trưởng thành, tiền lương hưu cũng đủ cho chị chi tiêu dùng hàng ngày. Song, có thời gian, còn sức khoẻ, chị quyết định bước vào làm kinh tế ở độ tuổi 55.