Không thay đổi, 20 năm tới xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn ì ạch
Tại diễn đàn chính sách “Tiêu thụ hàng nông sản trong bối cảnh hội nhập: kinh nghiệm từ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)” được tổ chức trong hai ngày 1 và 2-10 tại Thành phố Cần Thơ, ông Nguyễn Đình Bích cho rằng Việt Nam là quốc gia có chuỗi giá trị ngành lúa gạo dài nhất trên thế giới hiện nay.
Theo đó, đường đi của hạt gạo ở ĐBSCL phải qua rất nhiều khâu trung gian, từ nông dân, qua cò lúa, qua thương lái, đưa đến các nhà máy xay xát, qua môi giới bán gạo, thương nhân phân phối rồi mới đến các nhà xuất khẩu.
Theo ông Bích, điều này sẽ dẫn đến hai hệ quả.
Thứ nhất, chuỗi giá trị càng dài bao nhiêu, thì lợi nhuận phân phối cho hai chủ thể chính là người nông dân sản xuất lúa và doanh nghiệp xuất khẩu gạo càng ít hơn; thứ hai, không kiểm soát được dư lượng kháng sinh và truy xuất được nguồn gốc...
“Hệ quả tiếp theo của câu chuyện này là không thể xuất khẩu gạo vào được những thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng, mà phụ thuộc rất lớn vào một số rất ít thị trường không đòi hỏi về chất lượng,” ông Bích cho biết.
Ngoài lý do về chất lượng, việc xuất khẩu gạo vào ba thị trường tập trung gồm Malaysia, Indonesia và Philippines có giá bán bình quân chênh lệch khá lớn so với mức giá bình quân của các thị trường còn lại trong quá khứ cũng dẫn đến phụ thuộc vào ba thị trường này.
Cụ thể, theo ông Bích, vào năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam vào ba thị trường nêu trên có giá bình quân cao hơn mức giá bình quân của các thị trường còn lại đến 95 đô la Mỹ/tấn; năm 2009 con số này là 106 đô la Mỹ/tấn và đến năm 2010 mức chênh lệch về giá giữa ba thị trường này với các thị trường còn lại đã lên đến 164 đô la Mỹ/tấn.
Chính lợi nhuận xuất khẩu vào ba thị trường nêu trên lớn hơn rất nhiều so với các thị trường còn lại, cho nên đã có một thời gian dài có không ít doanh nghiệp cứ trông chờ vào phân bổ hạn ngạch xuất khẩu vào ba thị trường này, mà lười tìm kiếm thị trường mới.
Tuy nhiên, theo ông Bích, từ năm 2013 trở lại đây, xuất khẩu gạo vào ba thị trường nêu trên gặp khó khăn hơn do chính sách tự túc lương thực của họ, trong khi đó, thị trường mới là Trung Quốc lại thường xuyên “nóng- lạnh” dẫn đến xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp khó như hiện nay.
Vì vậy, vấn đề chính của ngành lúa gạo ĐBSCL hiện nay là phải thay đổi về mặt chất lượng hạt gạo để tạo sự đa dạng về thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường khó tính, đặc biệt, phải “làm gọn” chuỗi giá trị của ngành hàng này.
Theo một số nhà chuyên môn, muốn làm được như vậy thì phải tổ chức lại sản xuất thông qua mô hình cánh đồng lớn.
Có thể bạn quan tâm
Hiệu Quả Từ Mô Hình Tưới Nước Tiết Kiệm Bắt đầu thực hiện từ năm 2007, mô hình sử dụng hệ thống phun mưa đang được áp dụng trên 17 tỉnh thành trong cả nước. Mô hình này giúp bà con giảm được công chăm sóc và tăng năng suất cây trồng.
Xuất Khẩu Cá Tra Tăng Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, hiện sản lượng cá tra tồn đọng trong dân còn khoảng 200.000 tấn, chiếm 17% so với 1,2 triệu tấn trong kế hoạch sản xuất năm 2012.
Tôm Khô Vinh Kim Khan Hàng, Giá Cao Bà Trần Thị Khâm (Hai Khâm), chủ nhân của một trong những cơ sở sản xuất tôm khô ở xã Vinh Kim, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, cho biết giá tôm khô đặc sản loại 1 của địa phương này hiện khoảng 1 triệu đồng/kg, loại 2, loại 3 tương ứng khoảng 800.000 đồng và 700.000 đồng/kg, bình quân tăng 30% so năm ngoái và gấp đôi so với ba năm trước.
Thu 24 Tỷ Đồng/năm Từ Rau Má Đó là khoản thu nhập “chắc như bắp” của xã viên HTXNN 1 Nhơn Phú, TP Quy Nhơn (Bình Định). Nhờ trồng rau má, gần 4.000 nhân khẩu đã có thu nhập ổn định.
Tôm Việt Nam Lấy Lại Hình Ảnh Tại Thị Trường Nhật Bản Theo tin từ Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), sau 1 tháng quy định cấm sử dụng kháng sinh Enrofloxacin trong sản xuất, kinh doanh thủy sản có hiệu lực, tình trạng sử dụng hóa chất này trong nuôi tôm đã được cải thiện đáng kể. Nhờ đó, thông tin cảnh báo mới đây nhất của Nhật Bản cho thấy, trong tháng 3 chỉ duy nhất có 1 lô tôm của Việt Nam bị phát hiện nhiễm Enrofloxacin.