Hiệu Quả Từ Mô Hình Tưới Nước Tiết Kiệm

Từ năm 2009, bà Mè Thị Nụ xã Lệ Mỹ, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ bắt đầu sử dụng hệ thống phun mưa để tưới nước cho đồi chè hơn 1ha của mình. Nhờ có hệ thống phun mưa, gia đình bà giảm bớt được rất nhiều công lao động, do quá trình tưới được cơ khí hoá, tự động hoá cao.
Bà Nụ cho biết: "Trước kia gia đình không có máy tưới rất vất vả. Nếu gánh nước từ dưới lên trên đồi ca thì tôi phải gánh mấy ngày mới có thể xong một đồi chè. Ngay cả việc phun thuốc trừ sâu cũng mất hai lao động. Từ khi có máy tưới thì đỡ vất vả hơn và luôn chủ động được công chăm sóc.”
Không những giảm bớt công lao động trong việc chăm sóc đồi chè mà năng suất chè cũng nâng lên. Trước đây, đến thời kỳ thu hái chè, sau khi bón phân và phun thuốc gia đình bà Nụ phải chờ mưa xuống mới có thể thu hoạch.
Nhưng bây giờ, sau khi bón phân và phun thuốc, gia đình bà sử dụng hệ thống phun mưa thay cho việc chờ mưa xuống. Nhờ đó rút ngắn thời gian thu hái chè, tăng số lần thu hái chè trong một vụ, đồng nghĩa thu nhập cũng tăng lên.
Gia đình bà Mè Thị Nụ là một trong ba gia đình trong xã Lệ Mỹ thực hiện mô hình tưới nước tự động này. Qua 2 năm triển khai, kết quả thu được tại cả ba hộ rất khả quan. Ông Nguyễn Hồng Minh, Phó Chủ tịch xã Lệ Mỹ đánh giá chung về hiệu quả phương pháp tưới nước bằng hệ thống phun mưa: “ Phương pháp này được tới ba mặt: Mặt thứ nhất là công lao động, mặt thứ hai là sản lượng chè, mặt thứ ba là năng suất chè.”
Hệ thống phun mưa là một trong bốn phương pháp tưới nước tiết kiệm. Mô hình tưới nước tiết kiệm tại xã Lệ Mỹ là mô hình thí điểm được thực hiện nhờ vào dự án hỗ trợ nông nghiêp, nông thôn và nông dân của Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Quốc gia. Dự án này được bắt đầu thực hiện từ năm 2007, và đến nay đã thực hiện trên 17 tỉnh thành trong cả nước, trong đó có Phú Thọ.
Dự án nhằm hỗ trợ và khuyến khích bà con nông dân phát triển sản xuất. Khi tham gia mô hình, các hộ miền núi được hỗ trợ 75%, và các hộ tại đồng bằng được hỗ 50% chi phí đầu tư hệ thống tưới nước.
Thạc sĩ Đỗ Văn Quang, Chủ nhiệm dự án cho biết: “ Thực hiện đến nay đã được 3 năm, bà con hết sức ủng hộ. Tôi hy vọng có nhiều chương trình thí điểm như thế này để bà con học tập và mạnh dạn đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.”
Cũng theo thạc sĩ Đỗ Văn Quang, hệ thống phun nước này người dân hoàn toàn có thể tự đầu tư. Mỗi một ha cây trồng cần chi phí khoảng 50 triệu đồng, tuy đầu tư ban đầu khá lớn nhưng cách làm này cũng giúp nhanh lấy lại vốn.
Với những hiệu quả, mô hình này cần được nhân rộng nhằm giảm thiểu khó khăn cho bà con nông dân, đồng thời tăng năng suất chất lượng sản phẩm nâng cao đời sống cho bà con nông dân, đặc biệt là bà con nông dân các huyện vùng núi.
Có thể bạn quan tâm

Thực hiện Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 3-7-2012 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển thủy sản tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 - 2020, trong những năm qua, Sở Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp chặt chẽ với các huyện, thành, thị tích cực thực hiện các nội dung giải pháp quy hoạch, trong đó phát triển mạnh mô hình nuôi thâm canh cá lồng trên sông và hồ chứa.

Chiều 19.8, Sở NN&PTNT phối hợp với Công ty TNHH một thành viên Giống cây trồng Quảng Bình tổ chức hội nghị đầu bờ nhằm đánh giá hiệu quả của các mô hình sản xuất khảo nghiệm 4 giống lúa mới, gồm SV181, SV46, SV47, SVX7 tại xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc.

Thời gian sinh trưởng cực ngắn, kháng được nhiều loại sâu bệnh nguy hiểm, cho năng suất vượt trội…, giống lúa lai mới HBO2 hứa hẹn sẽ mang lại cho nông dân xứ Quảng hiệu quả kinh tế cao. Đây được xem là một trong những giống lúa thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Hôm qua 19.8, Trung tâm Khuyến nông - khuyến ngư Quảng Nam và Trường Đại học Nông lâm Huế phối hợp với Trạm Khuyến nông - khuyến lâm Phú Ninh tổ chức hội thảo đầu bờ đánh giá hiệu quả của mô hình “Sản xuất trình diễn giống đậu phụng L23 trên chân đất lúa chuyển đổi có sử dụng chế phẩm sinh học TP phòng trừ bệnh héo rũ” tại cánh đồng Bà Kiên thuộc thôn Dương Đàn, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh.

Dẫn chúng tôi đi xem ruộng lúa xứ Rộc Đồn (thôn Hòa Phước, xã Bình Trị) nằm sát con đường bê tông dẫn vào Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, ông Nguyễn Công Tọa chua chát nói: “Trước đây, kênh mương nội đồng gần như ngang bằng với mặt đường, mưa lớn, nước còn rút đi kịp. Giờ mặt đường cao hơn mặt ruộng đến hơn 2m, mưa xuống, nơi đây chẳng khác gì biển nước”.