Một Hướng Đi Mới Của Người Chăn Nuôi

Với mục đích nghiên cứu, chọn lọc và nhân giống làm cơ sở bảo tồn các giống heo địa phương trên địa bàn tỉnh, thời gian qua, Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh đã thực hiện “Thử nghiệm một số cặp lai giữa heo rừng Thái Lan và heo bản địa tại Gia Lai”.
Số heo con lai ra đời thích nghi với điều kiện nuôi dưỡng. Đặc biệt, việc xây dựng quy trình chăn nuôi heo địa phương với heo rừng lai phù hợp trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã hoàn thành. Đây được xem là hướng đi mới của người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Gia Lai có nhiều giống heo địa phương được nuôi dưỡng trong điều kiện phù hợp với tập quán chăn thả cùng nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có, tuy nhiên, do thời gian nhiều giống dần bị mất nguồn gien quý hiếm. Trước thực trạng báo động này, từ tháng 1-2010 Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh đã tiến hành thực hiện thử nghiệm đề tài khoa học “Thử nghiệm một số cặp heo lai giữa heo rừng Thái Lan và heo địa phương tại Gia Lai”. Sau hơn 3 năm nghiên cứu lai tạo thử nghiệm đến nay việc lai tạo đã cho ra đời những con heo lai mới mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Theo khảo sát của Trung tâm, hiện tại phần lớn heo địa phương được nuôi trong vùng đồng bào dân tộc Bahnar và Jrai. Tuy nhiên, số lượng đàn heo còn rất ít, phân bổ rải rác ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, tại một số xã thuộc 3 huyện Krông Pa, Chư Pah, Đak Pơ và một số huyện khác của tỉnh.
Heo địa phương có nhiều đặc điểm dễ nhận thấy như: nhỏ con, mõm dài, da dày, lông đen dài, có bờm dài và dựng đứng, chân nhỏ đi bằng móng rất nhanh nhẹn. Chúng có 3 màu sắc lông là màu đen, đen trắng và trắng ở phần bụng. Ngoài ra một số có màu sọc dưa chiếm tỷ lệ thấp và sẽ tự mất dấu này khi heo đạt 3-4 tháng tuổi. Ưu điểm lớn nhất của heo địa phương là khả năng thích nghi cao với môi trường, chống chịu bệnh tốt, sử dụng được các loại thức ăn thô, nghèo dinh dưỡng, chi phí đầu tư nuôi thấp.
Để thực hiện thử nghiệm, Trung tâm đã nhập về 5 heo đực rừng từ Thái Lan để làm giống và cho lai với đàn heo địa phương. Qua thời gian lai tạo đã cho kết quả rất khả quan. Heo con lai giữa heo rừng Thái Lan và heo địa phương ra đời có khả năng chống chịu bệnh rất tốt, thích nghi với điều kiện nuôi bán chăn thả rông... Đặc biệt, tỷ lệ nạc đạt 44,12%, tỷ lệ protein thô đạt 21,44%. Không những vậy, hiệu quả kinh tế rất khả quan, bình quân là 3,02 triệu đồng/nái/năm.
Theo ông Lê Quang Vịnh - Phó Giám đốc Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh, chủ nhiệm đề tài cho hay: “Sau 3 năm triển khai thực hiện đề tài, đã cho ra những bước đột phá trong việc giữ gìn và bảo tồn gien heo địa phương quý.
Quan trọng nhất là có lợi cho người chăn nuôi khi heo lai F1 giữa heo rừng Thái Lan và heo địa phương ra đời rất dễ nuôi, ít bị dịch bệnh, chuồng trại dân dã, ít tốn thức ăn, có thể tận dụng các nguồn thức ăn ngoài tự nhiên như bèo, rau, củ… thậm chí cả cỏ.
Đây là giống heo cần có biện pháp để bảo tồn. Đặc biệt, heo lai thích nghi phát triển được trên nhiều vùng đất của tỉnh Gia Lai. Hiện tại, mỗi ngày có rất nhiều hộ gia đình từ các huyện về Trung tâm để mua con giống về nuôi.
Vì vậy, Trung tâm đang hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật nuôi chuẩn để chuyển giao rộng rãi cho người chăn nuôi heo trong tỉnh. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc đa dạng hóa vật nuôi trên địa bàn tỉnh. Đồng thời Trung tâm cũng đã khuyến cáo người dân nên giữ giống heo địa phương để lai tạo giống heo rừng mới phát triển chăn nuôi”.
Trong điều kiện hiện nay, khi người chăn nuôi heo (nhất là heo siêu nạc) trên địa bàn tỉnh đang gặp rất nhiều khó khăn do giá cả heo hơi rất thấp. Trong khi giá thức ăn chăn nuôi luôn ở mức cao. Việc lai tạo thành công giữa heo rừng Thái Lan và heo địa phương cho những kết quả thuận lợi sẽ là tiền đề giúp người chăn nuôi có cái nhìn mới trong việc chọn lựa heo rừng lai để phát triển kinh tế gia đình.
Có thể bạn quan tâm

27 tuổi là ông vua của một trang trại trồng nấm ở huyện Tân Yên, thu nhập trên 100 triệu đồng mỗi năm. Đó là anh Nguyễn Văn Quý ở thôn Quang Châu, xã Ngọc Châu là một người như thế.

Ngư dân không bám biển thì không có cá, tôm không có sinh kế. Đặc trưng sinh kế này buộc ngư dân phải gắn bó rất chặt chẽ với biển. Muốn ra được biển trong bối cảnh phức tạp hiện nay họ cần được đầu tư hỗ trợ. Nhà nước và thành phố đã có nhiều chính sách hỗ trợ ngư dân; tuy nhiên, vì nhiều lý do, các chính sách này chưa đến được ngư dân. Không được tiếp sức kịp thời, hiệu quả khi đang ở giai đoạn khó khăn nhất, ngư dân ngày càng đuối sức, khai thác thủy sản Hải Phòng vì thế ngày càng tụt hậu.

Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có văn bản yêu cầu các địa phương tăng cường kiểm soát việc vận chuyển, giết mổ và tiêu thụ thịt gia súc bị bơm nước.