Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Trồng Nấm Hồng Chi

Trạm Khuyến nông huyện Châu Phú (An Giang) vừa trình diễn thành công mô hình trồng nấm hồng chi. Qua đợt trồng nấm đầu tiên cho thấy, hiệu quả kinh tế khá cao nên đã tạo nhiều niềm tin cho người dân trồng nấm tại địa phương.
Anh Lê Hồ Minh Thiện, kỹ thuật viên Trạm Khuyến nông huyện cho biết, ngay khi Trại thực nghiệm (Sở Khoa học và Công nghệ) có được nguồn phôi nấm hồng chi, Trạm Khuyến nông huyện đã mua về và tiến hành trồng thử nghiệm tại nhà 3 hộ dân. Sau thời gian 75 ngày, các hộ đã thu hoạch đợt đầu, đa số nấm đều phát triển tươi tốt và cho năng suất cao. Tỉ lệ phôi cho nấm đạt từ 97% trở lên.
Ông Lê Văn Hoàng, ngụ ấp Vĩnh Lộc, thị trấn Cái Dầu, chia sẻ: “Đợt trước, tôi trồng 500 bịt phôi, cả 500 bịt đều cho nấm tươi tốt, thu hoạch đợt đầu được 20 kg nấm tươi, sau khi phơi nắng thu được 11 kg nấm khô, bán với giá 550 ngàn đồng/kg, kiếm được hơn 6 triệu đồng. Đấy là chưa kể, khoảng 1 tháng sau là nấm bắt đầu trổ thêm đợt 2, năng suất bằng phân nửa đợt đầu, tôi cũng kiếm thêm khoảng 3 triệu đồng nữa”. Tính cả 2 đợt, ông Hoàng kiếm 9 triệu đồng, trừ chi phí sản xuất meo giống và làm giàn treo, ông đã bỏ túi hơn 5 triệu đồng.
Trồng nấm hồng chi không quá khó nhưng đòi hỏi nông dân phải nắm bắt một số kỹ thuật cơ bản thì phôi mới cho nấm to, đều, đẹp. Do chưa có kinh nghiệm trồng nên hộ ông Nguyễn Thời Nguyên, ấp Bình Hưng, xã Bình Long trồng nấm chỉ đạt tỉ lệ ra nấm khoảng 97% (trong 500 bịt phôi, có 15 bịt phôi bị hỏng, không thể ra nấm). Từ đó, ông Nguyên đã đúc kết kinh nghiệm: “Nấm hồng chi chỉ ưa ánh sáng, chứ không phải ánh nắng trực tiếp nên phải làm giàn trong nhà. Nếu trồng trong điều kiện không đủ sáng, phôi sẽ không cho nấm.
Còn khi tiếp xúc nhiều ánh sáng quá sẽ cho chân nấm dài, tay nấm nhỏ và sinh trưởng chậm. Ngoài ra, không được trồng nấm gần nơi chuồng trại, khu vực trồng phải sạch sẽ thoáng mát, nên có thêm một lớp cát được tưới nước thường xuyên để giữ độ ẩm cho không khí, với ẩm độ lý tưởng 80o và nhiệt độ trung bình 20 - 30 độ C, có thể tưới khoảng 1 - 2 lần/ngày và không cần cung cấp thêm dưỡng chất, bởi trong phôi đã có đủ phân, mùn cho nấm phát triển. Sau thời gian trồng nấm từ 60 đến 75 ngày là có thể thu hoạch. Tiếp tục chăm sóc thêm khoảng từ 30 đến 45 ngày, nông dân có thể “ăn” thêm một đợt nữa.
Sau thời gian trồng thực nghiệm và thường xuyên theo dõi, đánh giá, Trạm Khuyến nông huyện Châu Phú đã sơ kết mô hình và nhân rộng cho các nông dân khác. Đa số nông dân đều rất thích thú bởi việc trồng nấm đầu tư ít vốn, lời nhiều, dễ chăm sóc, sản phẩm lại dễ tiêu thụ trên thị trường. Hơn nữa, sản phẩm có thể tích trữ lại, tránh tình trạng cung vượt quá cầu. Theo ông Hoàng, trước đây ông chỉ chuyên trồng nấm bào ngư, có khi dội hàng ế chợ vẫn phải bán với giá rẻ bởi không thể bảo quản lâu. Còn với nấm hồng chi, ông có thể cắt nhỏ, đem phơi 3 - 4 nắng là có thể cất giữ được từ 1 đến 2 năm.
Mô hình trồng nấm hồng chi ở huyện Châu Phú bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân, giúp họ tăng thu nhập. Đồng thời, việc nhân rộng mô hình sẽ cung cấp được một lượng nấm dược liệu quý hiếm cho thị trường, giúp người bệnh đỡ cất công đi tìm kiếm ở các vùng miền khác.
Theo Trạm Khuyến nông huyện Châu Phú, nấm hồng chi còn gọi là nấm linh chi đỏ hay xích chi, đơn chi. Nấm hồng chi là một trong 6 loại nấm thuộc họ nấm linh chi, thường sống ở nơi có khí hậu ôn hòa. Đây là loại nấm thảo dược, chỉ dùng để nấu lấy nước uống chứ không phải là thực phẩm như các loại nấm thông thường. Nấm có màu đỏ, vị đắng, hậu ngọt có tác dụng điều trị hội chứng rối loạn lipid máu, ổn định huyết áp, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, chống oxy hóa, điều trị được bệnh gout, bệnh gan... Hiện nay người dân sử dụng 2 cách để uống: Cho một vài lát nấm hòa với nước nấu lấy nước uống hoặc phơi khô, xay nhuyễn và pha uống (giống như pha trà).
Có thể bạn quan tâm

Chỉ cần vài tiếng đồng hồ lắp đặt, bà con nông dân đã có thể đưa vào sử dụng ngay một bể biogas bằng chất liệu composite siêu bền. Trước đây, các hộ chăn nuôi, trang trại, gia trại chủ yếu xây dựng hầm biogas bằng chất liệu gạch và xi măng. Nhưng bể biogas xây bằng gạch có nhiều nhược điểm như dễ bị nứt, lún, bể xây càng to rủi ro càng lớn

Nông dân tham gia mô hình được hướng dẫn kỹ thuật sử dụng phân bón NPK Việt Nhật và được hỗ trợ 100% giá phân bón. NPK Việt Nhật được dùng cho từng thời kỳ, gồm 2 loại là NPK 16:12:8 dùng cho bón lót, bón thúc và NPK 16:8:14 dùng cho bón đón đòng. Qua theo dõi cho thấy sử dụng phân bón NPK Việt Nhật lúa đẻ nhánh khoẻ, số nhánh hữu hiệu cao, lá màu xanh sáng, cây cứng, ít sâu bệnh. Sử dụng phân bón NPK Việt Nhật cho năng suất lúa khá cao, đạt khoảng 300kg/sào, cao gấp 1,4 lần so với sử dụng phân đơn; trong khi số lần sử dụng thuốc BVTV giảm hẳn.

Từ đầu năm đến nay, nông dân ở hai xã Mỹ An Hưng A, Mỹ An Hưng B của huyện Lấp Vò thu được lãi khá cao từ trồng ớt chỉ thiên, trong đó tiêu biểu là bà Trịnh Kim Hoa ở ấp An Thái, xã Mỹ An Hưng A