Xuất khẩu gạo mậu biên tại Myanmar vẫn diễn ra bất chấp lệnh cấm

Myanmar tạm thời dừng xuất khẩu gạo từ tuần đầu của tháng 8 đến giữa tháng 9 do hơn 15% diện tích trồng lúa, khoảng 400.000 ha, bị hư hại do lũ lụt.
Tuy nhiên, xuất khẩu gạo tiểu ngạch qua cửa khẩu biên giới Muse, bang phía bắc Shan, vẫn tiếp diễn. Do tình trạng này, giá gạo tại Muse đã tăng thêm 1.500 kyat (1,16 USD)/bao so với tại thị trường Mandalay.
Tổng thư ký Liên đoàn Lúa gạo Myanmar (MRF) đảm bảo rằng lệnh cấm xuất khẩu gạo sẽ được dỡ bỏ vào ngày 15/9 như kế hoạch. MRF cũng hạ dự báo xuất khẩu gạo của nước này xuống khoảng 1,5 triệu tấn trong năm 2015.
Trung Quốc hiện là thị trường xuất khẩu chính của gạo Myanmar, nhưng phần lớn được xuất qua các cửa khẩu biên giới.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) ước tính sản lượng lúa của Myanmar niên vụ 2015-2016 đạt 20 triệu tấn (12,8 triệu tấn gạo) và xuất khẩu đạt 2,2 triệu tấn.
Có thể bạn quan tâm

Đã hơn 20 năm qua, người dân Vũng Liêm đã gắn bó và sinh sống cùng cây lác. Thu nhập kinh tế từ 1 công đất lác hơn hẳn 1 công đất lúa. Lác dễ trồng, một lần trồng có thể thu hoạch được trong 5 - 6 năm, cá biệt có diện tích tốt sẽ thu hoạch được gần 10 năm. Cứ 5 tháng thì thu hoạch một lần.

Đến cuối năm 2014, tổng diện tích cà phê trên địa bàn huyện Khánh Sơn là 536ha, trong đó, 320ha đang trong thời kỳ thu hoạch. Tuy nhiên, theo ông Lê Anh Quang, cán bộ khuyến nông xã Sơn Bình, do thời tiết diễn biến bất thường, cà phê lâu năm trổ bông đúng thời điểm nhiều mưa nên năng suất không cao, thậm chí giảm so với mọi năm.

Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh Bình Thuận hàng năm trên 100 ngàn ha, năng suất bình quân năm 2014 là 56,3 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 659 ngàn tấn. Vùng sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh tập trung ở các huyện Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Tánh Linh, Đức Linh.

Đồng ruộng được dồn đổi, chỉnh trang, kiến thiết tạo nhiều thuận lợi cho thâm canh và áp dụng cơ giới hóa. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, nhiều mô hình và cách làm hay, hiệu quả đã được khẳng định trong thực tiễn qua nhiều năm là cơ sở để áp dụng và nhân rộng nhanh.

Trên con đường bê tông phẳng phiu, uốn lượn qua những nương chè xanh ngát, chúng tôi đến nhà ông Trần Duy Hưng ở xóm Cây Thị, một trong những hộ làm chè Đông lâu năm của xã. Ông cho biết : Vì chủ động được nguồn nước tưới nên năm nào nhà tôi cũng làm 10 sào chè vụ đông.