Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tỷ phú giữa vùng hạn

Tỷ phú giữa vùng hạn
Ngày đăng: 25/06/2015

Nếu huyện Ninh Sơn là vùng đất nổi tiếng khô cằn của tỉnh Ninh Thuận cũng khô cằn nhất cả nước thì xã Quảng Sơn được xem như rốn hạn, với những cánh đồng có biệt danh “đồng chó ngáp”. Những ngày nắng hạn khốc liệt này về đây mới thấy mặt đất vỡ toác từng mảng và người dân mỏi mòn, chực chờ lấy từng giọt nước rỉ rả để đưa vào đồng ruộng. Ấy vậy mà lão nông Nguyễn Thất vẫn sống khỏe trên vùng đất này nhờ tính cần cù và biết nhìn xa, trông rộng…

Từ người làm thuê thành điền chủ

Như đã hẹn, lão nông Nguyễn Thất đưa tôi ra nông trang mía rộng 15ha. Trong khi xung quanh là những đồng mía ngả vàng vì nắng hạn khốc liệt thì nông trang mía 7 tháng tuổi của ông Thất vẫn xanh um, ngút ngàn. Chỉ vào vườn mía của mình, ông Thất bảo đấy là “tầm nhìn chiến lược” của hơn chục năm trước và đôi khi cũng có cả sự may mắn nữa.

Năm 2001, giữa lúc giá mía tụt thê thảm, người dân trồng mía trong vùng thi nhau chặt mía bán cho công ty vớt vát từng đồng, rồi bỏ đồng, thì ông Thất đi thuê lại 120ha đất gốc mía của người dân để “vỗ béo” với giá 250.000 đồng/sào. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, những gốc mía tưởng chừng bị bỏ đi đó đã được thu hoạch, lại đúng thời điểm mía được giá, mỗi sào mía ông Thất vẫn thu được 1,5 triệu đồng/sào. Sau vụ thắng to này, ông Thất gom tiền rồi mua một lúc 50ha đất. Từ chỗ một người chỉ đi thuê đất trồng mía, ông Thất trở thành điền chủ ở địa phương.

Không chỉ dựa vào cái sự may mắn do giá mía bất ngờ được giá, ông Thất còn biết tính toán để giúp vườn mía “sống chung với hạn”. Ở cái vùng đất cày lên sỏi đá này, nếu không có hệ thống tưới tiêu, một năm chỉ trông chờ vào 3 tháng mưa thì đến cây dại cũng chẳng sống được chứ nói gì đến mía. Rồi, ông bắt đầu tìm những vùng đất thấp, gần suối, hồ để lập nông trang cho mình. “Kinh nghiệm cho thấy, ở vùng đất khắc nghiệt này, đất thấp trồng mía, đất cao trồng mì” - ông Thất chia sẻ.

Có đất nhiều đã khó, tìm được nước giữa vùng hạn cũng khó, nhưng cái khó lớn nhất của nghề làm nông lại là đầu ra của sản phẩm hàng hóa. Nghĩ thế, ông Thất bán dần 50ha đất bạc màu đang có rồi mua dần những mảnh đất thấp, gần suối để tận dụng lợi thế nước có sẵn khi thiên nhiên quá khô hạn khắc nghiệt. Cứ thế ông tích tụ dần để có 15ha đất như hiện nay. Ông bảo, ưu thế của các vùng đất gần các con suối là có thể tận dụng được ngay nguồn nước mặt mà không cần phải đào, khoan, nên dù có hạn, vườn mía nhà ông vẫn luôn có đủ nước để tưới và không mất thêm chi phí. Chỉ có điều, để có được đất gần suối ông phải đi gom nhiều mảnh đất lại rồi mất công khai phá, cải tạo đất. Đặc biệt cần phải biết thiết kế các hệ thống rãnh nước chảy tự nhiên vào ruộng mía.

Khi có được đất, ông Thất chí thú làm ăn. Ông dốc vốn vào đầu tư nông trang mía. Cũng bởi vậy, ngoài công việc là một doanh nghiệp thu mua nông sản, chỉ riêng trồng mía, doanh thu của ông Thất hàng năm gần 1 tỷ đồng.

“Nông dân mình vốn cần cù, sáng tạo nhưng chỉ có thế vẫn chưa đủ, nông dân còn cần phải có vốn lớn, đất rộng, phải biết tính toán đầu ra, đầu vào, tìm kiếm thị trường. Nói chung, nông dân thời buổi này phải có tính chí thú làm ăn của một người nông dân và cái đầu của một doanh nghiệp” - ông Thất đúc kết.

“Ngân hàng” không thu lãi

Thật ra, để trở thành điền chủ như hôm nay, lão nông Nguyễn Thất đã phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt với hai bàn tay trắng. Ông kể, năm 1980, lấy vợ ra riêng chỉ với 2 lon gạo, 3 cái chén, 1 cái đĩa. “Tôi cất một cái chòi lá tạm bợ dựa vào vách của một ngôi chùa để che nắng che mưa và cứ thế cày thuê cuốc mướn để tồn tại” - ông Thất nhớ lại.

Dành dụm được ít vốn, ông đi tìm những mảnh ruộng cằn cỗi rồi thuê lại với giá rẻ để trồng mía, trồng mì, cũng như lộc cộc đi thu mua mía, ép mật bán cho các công ty mía đường. Và đến năm 2001 thì ông đổi đời… như câu chuyện mà chúng tôi đã nhắc ở trên.

Ông Thất tâm sự: “Thời tiết ở đây khắc nghiệt lắm, khô hạn quanh năm. Một năm nông dân chỉ trông chờ vào 3 tháng mưa. Vì vậy, nông dân chúng tôi phải nỗ lực, cần cù hơn người mới có cái ăn”.

Để chứng minh “tính nỗ lực hơn người” của mình, lão nông Nguyễn Thất dẫn tôi đi xem khu vực nuôi cừu vỗ béo mà ông mới gây dựng. Hơn 100 con cừu gầy trơ xương đang được ông mua lại rồi thuê nhân công chăn dắt. Ông bảo thời gian khô hạn khốc liệt vừa qua khiến cho nhiều đàn cừu của nông dân ở đây gầy trơ xương hoặc chết đói vì thiếu nước, thiếu thức ăn.

“Tội cho bà con, giá cừu hiện nay rẻ lắm. Tôi mua lại số cừu suy kiệt này một phần cũng muốn giúp bà con nghèo thu lại ít nhiều đồng vốn bỏ ra đầu tư nuôi cừu, một phần cũng muốn tận dụng cơ hội này để vỗ béo chúng mong bán lại khi giá tăng, tôi cũng dự kiến sẽ nâng tiếp số lượng đàn cừu lên”, ông tâm sự.

Nhắc đến lão nông Nguyễn Thất, ông Chín Ngọt (Nguyễn Văn Ngọt – Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Ninh Thuận) tỏ ra khâm phục: “Ông Thất đúng là một nông dân điển hình. Từ hai bàn tay trắng, do cần cù, sáng tạo lao động, ông đã vươn lên làm giàu rồi quay lại giúp đỡ người nghèo vượt qua khó khăn”. Dẫn chứng cho nhận xét ấy, ông Ngọt cho biết, ông Thất là người luôn biết sẻ chia với những người khó khăn hơn mình.

Trong những việc làm chia sẻ với xã hội, lâu nay ông Thất vẫn “kín như bưng”, đó là ông thành lập “ngân hàng không lấy lãi” dành cho người nghèo. Hơn 10 năm nay, ngân hàng này vẫn “chạy tốt” với số vốn cho vay mỗi năm khoảng 100 triệu đồng.

Theo đó, công ty ông có khoảng 200 công nhân, hầu hết đều là những người có hoàn cảnh khó khăn. Vì thế, mục đích của ông là lập ngân hàng để hỗ trợ họ cải thiện đời sống kinh tế gia đình, giúp vượt qua tình huống bệnh tật… hay cho vay để phát triển sản xuất.

Cứ thế, mỗi trường hợp ít cũng vay được vài ba triệu đồng, nhiều thì chục triệu để dùng vào lúc ốm đau hay cần tiền để mua vật tư nông nghiệp. “Ngày tôi chân ướt chân ráo bước ra đời với hai bàn tay trắng và cái chòi lá dựa cạnh ngôi chùa, chính xã hội đã cưu mang, giúp đỡ tôi được như hôm nay. Giờ có điều kiện tôi muốn chia sẻ lại với những người khốn khó, xem như một cách để tri ân” - ông Thất chia sẻ.

Chia tay chúng tôi, ông Thất chỉ bảo: “Đã làm cái nghề nông, thì phải biết thích ứng, biết tìm cách để sống chung với hạn hán như ở Ninh Thuận chúng tôi, chứ cứ ngồi một chỗ đợi trời mưa thì chỉ có đói, có nghèo”.


Có thể bạn quan tâm

Ứng Dụng Bóng Đèn Ôzôn Ứng Dụng Bóng Đèn Ôzôn

Hẹn tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, lần nào cũng lỡ cỡ vì ông bận, cũng bị ngắt quãng bởi những cú điện thoại, những chuyến đến thăm của nhiều nông dân hỏi về ứng dụng của bóng đèn ôzôn. Còn nhớ cách đây cả năm, gặp tôi, ông cứ úp mở về chuyện đèn ôzôn được đưa cho nông dân để thắp cho thanh long ra hoa, để khử mùi, khử khuẩn cho chuồng trại gia súc nhưng tịnh không tiết lộ cụ thể ở đâu.

13/07/2012
Thúc Phân Khoáng Cho Cây Ăn Quả Thúc Phân Khoáng Cho Cây Ăn Quả

Bón thúc nụ, thúc hoa: Cần bón khi nhìn thấy một vài chùm nụ xuất hiện, thường trước khi nở hoa rộ 25-30 ngày. Vị trí bón phân theo hình chiếu của tán cây, đây là vị trí hoạt động mạnh nhất của bộ rễ

14/07/2012
Trồng Rau Màu Sạch Trồng Rau Màu Sạch

Hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, ngoài việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm chi phí, tăng năng suất đem lại lợi nhuận thì việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhiều người dân. Vì vậy, thời gian qua, thị trấn Trà Lồng, huyện Long Mỹ đã vận động thành lập các tổ, nhóm sản xuất để hỗ trợ vốn và kỹ thuật cho bà con nông dân, trong đó có câu lạc bộ (CLB) trồng rau màu sạch ở ấp Khánh Hưng 1

10/02/2012
Trồng Xen Băng Cây Phân Xanh Trồng Xen Băng Cây Phân Xanh

Qua kết quả nghiên cứu và thực tế cho thấy trồng xen băng cây phân xanh theo đường đồng mức như muồng hoa vàng, cốt khí…giữa cây công nghiệp (cà phê, cao su, điều) và cây ngắn ngày (ngô, lúa nương, sắn…) là biện pháp đơn giản và rất có hiệu quả trong việc bảo vệ đất, chống xói mòn, cải tạo độ phì của đất và góp phần tăng năng suất cây trồng.

14/07/2012
Các Phương Pháp Nuôi Hàu Các Phương Pháp Nuôi Hàu

Phương pháp nuôi này phụ thuộc con giống tự nhiên, chi phí xây dựng cơ bản thấp, chi phí sản xuất hạn chế, nhưng hiệu quả tương đối cao. Có rất nhiều loại đá khác nhau để làm vật bám tùy thuộc vào từng địa phương như đá vôi làm vật bám rất tốt, đá cuội, đá san hô… Kích cỡ đá trung bình 2-4 kg/hòn và dao động từ 1-10 kg/hòn. Đá được chuyên chở bằng thuyền hoặc ghe rải đều trên bãi có hàu giống xuất hiện. Năng suất đạt 0,5-1,5 kg hàu nguyên con/hòn đá.

14/07/2012