Trị Bệnh Phân Trắng Cho Tôm

Bệnh phân trắng là một trong những bệnh gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm trong những năm gần đây, việc phòng trị bệnh chưa có hiệu quả là do đa số bà con nuôi tôm chưa xác định đúng nguyên nhân.
Triệu chứng bệnh:
Thấy xuất hiện nhiều phân tôm màu trắng trên sàn ăn.
Một số phân trắng nổi trên mặt nước, thường xuất hiện cuối gió hoặc cuối guồng hay dọc bờ ao.
Tôm giảm ăn, chậm lớn, hao hụt cao.
Bệnh thường xuất hiện trong mùa nắng nóng, nhiệt độ nước cao hoặc ao nuôi mật độ cao (trên 40 con/ m vuông).
Nguyên nhân:
Bệnh có thể do nhiều hoặc một trong những tác nhân sau:
Tảo độc tiết ra độc tố lài phá hủy bộ phận gan tụy và đường ruột tôm (tảo đỏ có roi).
Tảo lam dạng sợi làm tróc lớp biểu mô trên đường ruột tôm (nước màu xanh lục đậm)
Tôm bị nhiễm khuẩn trên đường ruột.
Do nhiễm nguyên sinh động vật (Gregarina).
Do nhiễm độc tố thức ăn (Aflatoxin).
Phòng bệnh:
Tăng cường mức nước trong ao (1,2-1,5m).
Không nên nuôi mật độ trên 40 con/m vuông.
Không nên trộn nhiều chất béo vào thức ăn tôm.
Thường xuyên trộn Oli-mos, Bayrolac vào khẩu phần thức ăn hàng ngày của tôm (2-4g/kg thức ăn), trộn chung 2 loại và cho ăn trong suốt vụ nuôi.
Sát trùng bằng nước Virkon A (0,5ppm), cứ 15 ngày/ lần để diệt khuẩn hoặc diệt vi sinh Aqua Guard (theo liều hướng dẫn) trong suốt vụ nuôi.
Không cho màu nước quá đậm, nhất là màu xanh lục đậm.
Trị bệnh:
Dùng Osamet Shrimp với liều 5-10g/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5-7 ngày vào 2 suất ăn mạnh nhất trong ngày.
Đồng thời phải sát trùng nước bằng Virkon A (liều 1ppm).
Sau khi điều trị hết bệnh thì nên chuyển sang dùng liều phòng (Oli-mos, Bayrolac) sau đó 2 ngày.
Nếu ao nuôi theo quy trình vi sinh thì cấy lại vi sinh sau khi dùng Virkon A được 2 ngày.
Trường hợp phát hiện trong ao màu tảo đậm (thông thường có màu xanh lục đậm) lúc này nên lập tức thay nước giảm tảo (dùng nước đã qua sát trùng).
Lưu ý:
Hiệu quả của việc trị bệnh sẽ phụ thuộc vào thời điểm phát hiện bệnh, nếu phát hiện trễ thì hiệu quả sẽ thấp hơn, vì lúc này tôm ít ăn hoặc bỏ ăn, nên không thể đưa thuốc qua thức ăn được. Việc xác định đúng nguyên nhân sẽ giúp cho việc trị bệnh có hiệu quả
Có thể bạn quan tâm

Trong quá trình nuôi, các chất thải được máy quạt nước gom tụ vào giữa đáy ao (đối với ao đáy bùn đất thì một lượng chất thải vẫn còn phân bố xung quanh nền đáy). Đống chất thải này phân thành 2 lớp. Lớp ngoài rất mỏng (khoảng 5 mm) được ôxy hoá nên có màu tương đối sáng, có chức năng bao phủ và hạn chế khí độc thoát ra ngoài. Lớp bên dưới có màu đen, chất thải ở điều kiện thiếu ôxy nên vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra khí độc H2S.

Trong tự nhiên, tôm cái trưởng thành giao vĩ ngay sau khi lột xác. Chúng chứa tinh của tôm đực trong nang lưu tinh cho đến khi đẻ trứng. Sau đó, buồng trứng mới phát triển và tôm đẻ.

Nhóm nghiên cứu của Khoa Nông Lâm Ngư- Đại học Vinh đã triển khai mô hình nuôi theo hướng này tại xã Hưng Hoà, thành phố Vinh, Nghệ An. Ao có diện tích 4.000 - 4.100 m2, mức nước 1,2 - 1,4m, độ mặn 25 – 15%o giảm dần từ đầu đến cuối vụ nuôi. ^Hai giàn quạt nước (24 cánh/giàn) được bố trí đảo chiều ở giữa ao nuôi.

Dịch bệnh, nhất là đốm trắng gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi. Tuy vậy, từ đầu năm đến nay, giá thức ăn đã giảm, lãi suất ngân hàng giảm mạnh, người nuôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong đối phó với dịch bệnh. Dưới đây là một số giải pháp cơ bản tại hội thảo chuyên đề “Làm cách nào giảm giá thành nuôi tôm sú?”, do Sở NN&PTNT vừa tổ chức tại Bình Đại.

Bệnh phân trắng thường xảy ra ở tôm 40-50 ngày tuổi trở lên, mức độ xảy ra nhiều nhất là 70-80 ngày tuổi. Phân trắng xuất hiện nhiều hay ít phụ thuộc vào mật độ nuôi, mức độ của bệnh và số lượng tôm nhiễm bệnh. Mặc dù bệnh không gây tôm chết đồng loạt nhưng làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.