TPP và thách thức đối với thị trường xuất khẩu cá ngừ

Nhật Bản là thị trường xuất khẩu chính của cá ngừ Việt Nam.
Nhưng lâu nay, thuế nhập khẩu đối với cá ngừ của Việt Nam sang Nhật Bản khoảng từ 6,4 - 7,2%.
Trong khi đó, Thái Lan và Philippines xuất khẩu sản phẩm này sang thị trường Nhật Bản lại có mức thuế 0%.
TPP không chỉ mang lại sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ sang Nhật khi thuế suất giảm bằng 0% mà quan trọng hơn sẽ tác động đến thu nhập của ngư dân khai thác cá ngừ.
Nhưng một thực tế khác đang khiến cho các nhà quản lý lo lắng.
Đó là mỗi năm, các doanh nghiệp chế biến cá ngừ ở Việt Nam lại nhập đến 10.000 tấn nguyên liệu cá ngừ.
Khi TPP có hiệu lực, thuế suất đối với nguyên liệu cá ngừ nhập khẩu đưa xuống bằng 0%.
Rất có thể khi đó, cá ngừ các doanh nghiệp nhập khẩu để chế biến lại rẻ hơn so với mua cá ngừ ngư dân khai thác, doanh nghiệp có lợi nhưng ngư dân khó khăn.
Trong năm nay, ở 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa, nơi có 2.800 tàu khai thác cá ngừ đại dương , sản lượng cá ngừ trong thời gian khai thác cao điểm từ tháng 1 đến tháng 6 chỉ đạt khoảng 9.800 tấn.
Theo tính toán của ngư dân, với chuyến khai thác có mức tổn phí khoảng 150 triệu đồng và với giá cá 110.000 đồng/kg, để có lãi, lượng cá trong mỗi chuyến biển phải được 1,5 - 2 tấn.
Tuy nhiên, rất ít tàu cá đạt được sản lượng này.
Đó là chưa nói chất lượng cá ở mức thấp càng làm giảm thu nhập của ngư dân.
Muốn tránh tác động từ TPP, con đường duy nhất là giá bán cá ngừ đại dương của Việt Nam phải mang tính cạnh tranh.
Từ hơn 1 năm nay, đề án thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến và tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai cũng không ngoài mục đích tăng khả năng cạnh tranh của sản xuất cá ngừ.
Thực tế cho thấy: chỉ khi tổ chức sản xuất theo chuỗi, sản phẩm cá ngừ Việt Nam mới có được khả năng cạnh tranh, biến những thách thức thành lợi thế khi tham gia TPP .
Có thể bạn quan tâm

Chính phủ nên tiếp tục triển khai BHNN với quy mô rộng hơn có sự hỗ trợ của nhà nước về phí bảo hiểm cho người nông dân, và phải gắn với các chương trình phát triển khác của nông nghiệp.

Đến thôn Dục Quang những ngày này, xe tải tấp nập chở đầy mía tím đi tiêu thụ. Anh Nguyễn Văn Thêm, một trong những chủ hộ có diện tích mía lớn trong thôn cho biết: “Trước đây, với 2 sào ruộng chân vàn cao, luôn thiếu nước, vợ chồng tôi cấy lúa nhưng thường mất mùa. Năm 2003, qua tìm hiểu và trồng thử nghiệm thấy cây mía tím phù hợp với đồng đất, cho hiệu quả kinh tế cao nên tôi quyết định chuyển hẳn sang trồng mía”.

SX nông nghiệp đang ghi nhận những tín hiệu vui trở lại sau thời gian dài ảm đạm. Sáu tháng đầu năm 2014, SX nông nghiệp khá thuận lợi khi không có thiên tai, dịch bệnh, toàn ngành chỉ có mối lo lớn là tiêu thụ nông sản.

Tham gia dự án có 19 hộ, mỗi hộ được vay gần 30 triệu đồng trong hai năm, mức phí 0,7%/tháng (8,4%/năm) và được hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Đến nay, Quỹ hỗ trợ nông dân Trung ương đã giải ngân được 22 lượt dự án với tổng số quỹ gần 10 tỷ đồng, giúp hàng trăm hội viên có thêm vốn phát triển sản xuất.

Vụ thu hoạch cà phê của Việt Nam không được như kỳ vọng có thể đẩy giá cà phê thế giới tăng cao do mức thâm hụt cà phê trên toàn thế giới lớn nhất 9 năm.