Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Tín Dụng Cho Nuôi Tôm Phải Thực Hiện Dù Mạo Hiểm

Tín Dụng Cho Nuôi Tôm Phải Thực Hiện Dù Mạo Hiểm
Ngày đăng: 18/06/2014

Trong lĩnh vực thủy sản, ngành tôm thường mang lại lợi nhuận cao nhất cho người nuôi, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn cả. Do vậy, đầu tư vào ngành tôm dù hấp dẫn nhưng cũng đầy mạo hiểm.

Những khách hàng lớn

Năm 2013, theo thống kê của ngành ngân hàng Quảng Bình, cơn bão số 10 đi qua đã gây thiệt hại cho tỉnh hơn 5.000 tỷ đồng. Trong đó, riêng Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Quảng Bình đã thiệt hại 270 tỷ đồng, khả năng trả được nợ của khách rất thấp.

Theo quy định, các khoản vay thiên tai không có tài sản đảm bảo thì mỗi hộ dân được vay không quá 50 triệu đồng, các trang trại sản xuất không quá 500 triệu đồng. Điều này là thách thức không nhỏ khi ngân hàng tiếp tục theo đuổi ngành tôm.        

Tuy vậy, xét góc độ khác thì ở một số tỉnh nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế hiện nay, ngành thủy sản nói chung và ngành tôm nói riêng vẫn là một thị trường đầu tư tài chính tiềm năng; các trang trại và doanh nghiệp thủy sản ngành tôm vẫn là những khách hàng lớn.

Ngân hàng NN&PTNT Sóc Trăng cho biết: Từ tháng 5/2010 đến nay đã giải ngân hơn 7.600 tỷ đồng, đứng thứ 2 so với các tỉnh ĐBSCL, tỷ lệ nợ xấu chỉ 0,8%. Trong đó, nguồn vốn cho vay theo Nghị định 41 của Chính phủ có tổng dư nợ là 2.670 tỷ đồng, chiếm 33,67%. Đối với lĩnh vực nuôi tôm từ năm 2007 đến nay, ngân hàng đã giải ngân hơn 4.100 tỷ đồng.

Vẫn tiếp tục

Theo Quyết định 540/QĐ-TTg mới nhất về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm, cá tra thì những khoản nợ quá hạn tính đến 31/12/2013 sẽ được khoanh nợ, nghĩa là người vay không phải trả lãi, đồng thời có thể vay vốn kinh doanh tiếp. Các ngân hàng chắc chắn sẽ có động thái tích cực hơn với khách hàng là doanh nghiệp, trang trại nuôi tôm. Từ đầu năm đến nay diện tích nuôi trồng giảm 2 - 10%, có phần do thiếu vốn nghiêm trọng.

Ngành tôm Việt Nam, sau bệnh dịch tôm chết sớm đang đứng trước cơ hội, thách thức về việc hiện đại hóa cơ sở vật chất, quy trình, con giống. Để tránh rủi ro, thất bại, tiến đến nuôi trồng bền vững, không thể không cần nguồn vốn mới. Tuy nhiên, nguồn vốn dành cho tôm sẽ là bao nhiêu vẫn chưa biết, bởi từ chủ trương cho vay mới đến việc các ngân hàng mở hầu bao còn phụ thuộc độ an toàn trong nuôi trồng và kinh doanh của ngành tôm.

Cách mạng về vốn

Đơn cử tỉnh Bạc Liêu, đến cuối năm ngoái, toàn tỉnh 24.290 hộ nuôi tôm có dư nợ tại các ngân hàng thương mại; các ngân hàng thương mại thì đã cho vay hơn  560 tỷ đồng. Nếu ngân hàng ngừng hay hạn chế cho vay, chắc chắc hàng chục ngàn hộ sẽ phải bỏ nghề tôm hoặc trở thành con nợ tín dụng đen với lãi suất cắt cổ.

Nhìn ở phương diện khác thì với việc giảm lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay, các ngân hàng hiện cũng rơi vào tình trạng biến động cung cầu.

Tại Cà Mau, đến cuối quý I/2014, huy động vốn giảm 4,8%, dư nợ tín dụng ngân hàng giảm 1,4% so đầu năm 2014. Các gói tín dụng cho vay với lãi suất ưu đãi ngắn hạn, chỉ 3 - 6 tháng, tác động không lớn.

Trong khi đó, các doanh nghiệp và trang trại cần nguồn vốn giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn. Với việc cơ cấu lại ngành tôm, rất cần nguồn vốn trung và dài hạn. Với chủ trương giãn nợ và cho vay mới, chắc chắn sẽ thúc đẩy người dân tiếp cận vốn ngân hàng.

Tuy vậy, với ngân hàng thương mại, vấn đề còn ở việc huy động vốn đến đâu? Việc giảm lãi suất huy động rõ ràng có ảnh hưởng đến việc huy động vốn; trước mắt việc huy động vốn gặp khó hơn trước. Xét về lâu về dài, việc giảm lãi suất sẽ giúp được nhiều người dân, doanh nghiệp trong kinh doanh, khi ngành tôm giảm được giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, từ đó sẽ đạt lợi nhuận cao và bền vững, tránh được thua lỗ và giảm nợ xấu.

Bổ sung nguồn vốn mới với lãi suất thấp vào ngành tôm nói riêng và thủy sản nói chung chắc chắn là một động thái tích cực, trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng khốc liệt.

Lợi nhuận ngành tôm phụ thuộc việc giảm giá thành nuôi trồng, chế biến và tìm được những giải pháp mới để nuôi trồng và xuất khẩu bền vững, giảm thiểu rủi ro. Quá trình này cần sự sát cánh của các ngân hàng.


Có thể bạn quan tâm

Chăn Nuôi Bò Sữa Những Mô Hình Mới Chăn Nuôi Bò Sữa Những Mô Hình Mới

Lâm Đồng là địa phương có nhiều ưu thế để phát triển nhanh các giống gia súc ăn cỏ như trâu, bò, dê… Riêng với con bò, những năm gần đây, Sở NN-PTNT tỉnh và chính quyền các địa phương trong tỉnh đã hỗ trợ nông dân triển khai các chương trình chăn nuôi lớn là Chương trình Sind hóa đàn bò vàng và Chương trình Phát triển giống bò sữa.

19/04/2014
Dầu Tiếng (Bình Dương) Sẽ Đẩy Mạnh Phát Triển Các Mô Hình Chăn Nuôi Động Vật Hoang Dã Dầu Tiếng (Bình Dương) Sẽ Đẩy Mạnh Phát Triển Các Mô Hình Chăn Nuôi Động Vật Hoang Dã

Hiện nay, trên địa huyện Dầu Tiếng (Bình Dương) có 99 hộ đăng ký chăn nuôi động vật hoang dã (ĐVHD) với 14 loài, gồm: Gấu ngựa, cá sấu, rắn ráo trâu, kỳ đà, rùa đất lớn, rùa núi vàng, cua đinh, cầy vòi hương, heo rừng lai, dúi, nhím… với tổng đàn lên đến 8.628 con.

19/04/2014
Hiệu Quả Từ Chăn Nuôi Bò Vỗ Béo Hiệu Quả Từ Chăn Nuôi Bò Vỗ Béo

Từ khi thành lập năm 2012 đến nay, mô hình chăn nuôi bò vỗ béo tại xã Long Trì, huyện Châu Thành (Long An), đã phát huy hiệu quả. Một số hội viên (HV) nông dân (ND) nhờ số vốn mồi đã có điều kiện làm ăn, vươn lên trong cuộc sống.

19/04/2014
Sản Lượng Mật Ong Giảm 1.500 Tấn Sản Lượng Mật Ong Giảm 1.500 Tấn

Đến nay, mùa vụ khai thác mật ong từ vải thiều trên địa bàn huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) đã kết thúc. Sản lượng mật ước đạt 900 tấn, giảm 1.500 tấn so với cùng kỳ năm trước.

19/04/2014
Phong Nẫm (Bến Tre) Nhiều Hộ Nuôi Dê Thoát Nghèo Phong Nẫm (Bến Tre) Nhiều Hộ Nuôi Dê Thoát Nghèo

Mô hình chăn nuôi dê sinh sản và dê thịt đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao và cải thiện cuộc sống của nhiều gia đình nghèo.

19/04/2014