Thúc đẩy sản xuất giống lúa lai

Vụ Đông Xuân 2014 - 2015, cả nước có 16 đơn vị sản xuất hạt giống lúa lai F1 tại 10 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích hơn 1.308 ha. Trong đó, các tổ hợp giống lúa lai F1 ba dòng như: Nhị ưu 838, Bắc ưu 903, Nam ưu 604, Bắc ưu 903 KBL, LC 25, HYT 100, HYT 108, CT16... được gieo sạ hơn 1.124 ha (chiếm 85,9%) diện tích; các tổ hợp hạt giống lúa lai F1 hai dòng như: VL 20, TH 3-5, TH 17, Phúc ưu 868 được gieo sạ với diện tích 184 ha (chiếm 14,1%).
Theo ông Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm KNQG, Đông Xuân 2014 - 2015 là vụ đầu tiên triển khai sản xuất dòng lúa lai "bố mẹ" trên phạm vi toàn quốc thông qua Dự án khuyến nông Trung ương.
Mặc dù điều kiện thời tiết có nhiều biến động, nhưng các đơn vị đã chủ động chỉ đạo kỹ thuật, người trực tiếp sản xuất đã tuân thủ tốt quy trình kỹ thuật, nên toàn bộ các trà sản xuất dòng bố mẹ đều thành công, đạt năng suất cao, chất lượng hạt giống đạt tiêu chuẩn. Vụ Đông Xuân này, ước tính cả nước sản xuất được khoảng 3.650 tấn hạt giống lúa lai F1.
Hiện nay, sản xuất hạt giống lúa lai F1 không chỉ mang lại hiệu quả cho người sản xuất, mà còn từng bước giảm lượng lúa giống nhập khẩu và chủ động nguồn giống để mở rộng diện tích lúa lai tại các địa phương.
Việc sản xuất hạt giống lúa lai F1 thành công đã khẳng định Việt Nam làm chủ được công nghệ sản xuất giống "bố mẹ" và sản xuất hạt lai F1; góp phần định hướng phát triển bền vững ngành sản xuất lúa lai của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc sản xuất hạt giống lúa lai F1 vẫn còn không ít khó khăn.
Việc sản xuất hạt giống lúa lai F1 phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Do vậy, việc bố trí lịch thời vụ, lịch gieo sạ hạt của dòng bố và dòng mẹ phải được tính toán kỹ để cho lúa trỗ vào thời điểm hợp lý, thuận lợi cho việc thụ phấn.
Điều khó khăn nhất với việc sản xuất giống là yếu tố khí hậu. Nếu vào thời điểm lúa trỗ mà gặp nhiệt độ dưới 24 độ C thì việc sản xuất hạt giống lúa lai F1 sẽ không đạt kết quả tốt. Do vậy, phải bố trí thời vụ hợp lý, để cho lúa trỗ vào thời điểm có nhiệt độ hơn 24 độ C thì hạt giống lúa lai F1 mới đạt chất lượng cao.
Tại nhiều địa phương chưa có vùng quy hoạch riêng để sản xuất hạt giống bố mẹ, nên các trà sản xuất bố mẹ phải gieo trồng xen kẽ giữa các diện tích sản xuất hạt lai F1 trong vùng quy hoạch hoặc xen với lúa thương phẩm, gây khó khăn cho yêu cầu cách ly trong sản xuất giống siêu nguyên chủng bố, mẹ. Và để hạt giống đạt chất lượng, thời gian qua, các đơn vị phải sử dụng phương pháp cách ly bằng tấm nylon, bạt... làm tăng chi phí sản xuất.
Để phát triển được các diện tích lúa lai, các tỉnh cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất hạt giống lúa lai có chất lượng, giá thành hạ, có sức cạnh tranh nhằm từng bước giảm lượng giống nhập khẩu; có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích nông dân sử dụng hạt giống lúa lai sản xuất trong nước.
Đồng thời, hình thành các mô hình liên kết bền vững giữa cơ quan nghiên cứu, doanh nghiệp với HTX và nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lúa lai F1.
Có thể bạn quan tâm

Ngày 21-5, Trung tâm Chuyển giao Khoa học công nghệ và Khuyến nông phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ và UBND huyện Thạch Thành (Thanh Hóa) tổ chức hội nghị đánh giá kỹ thuật trồng luân canh, xen canh lạc và đậu tương với mía tại Thanh Hóa.

Nhìn lại 4 năm thực hiện phát triển vùng chè, toàn tỉnh Lai Châu đã trồng mới được 385,7ha, đạt 110% so với kế hoạch. Năm 2014, sản lượng chè toàn tỉnh dự tính đạt 20.600 tấn, với năng suất ước đạt 85,3 tạ/ha (tăng 25,3 tạ/ha so với năm 2010)...

Chỉ còn khoảng một tháng nữa là nông dân huyện Vị Thủy (Hậu Giang) sẽ thu hoạch lúa Hè thu chính vụ. Trong khi đó, lượng lúa Đông xuân vẫn còn tồn đọng chưa thể tiêu thụ hết. Áp lực “lúa cũ chưa bán, lúa mới đã thu hoạch” và “lúa mất giá” tiếp tục đè nặng lên vai người nông dân.

Những ngày giữa tháng 6, màu vải chín bắt đầu phủ đỏ từng khoảng vườn, ngọn đồi tại huyện Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang). Vải được xếp đầy sân những ngôi nhà làm điểm tập kết tại thị trấn Kép, Chũ hay xã Phượng Sơn (huyện Lục Ngạn). Tại đây, sản phẩm sẽ được phân loại, đóng thùng xốp rồi đưa lên xe chở qua biên giới Trung Quốc. Chỉ một phần nhỏ được dành tiêu thụ trong nước.

Trong những năm qua, doanh nghiệp trước khi ký hợp đồng xuất khẩu gạo đều phải căn cứ trên giá sàn xuất khẩu mà Hiệp hội lương thực Việt Nam công bố. Tuy nhiên, thời gian tới doanh nghiệp có thể đàm phán và bán gạo với mức giá phù hợp mà không cần căn cứ trên giá sàn.