Thành Công Bước Đầu

Sau gần 1 năm triển khai, đề tài khoa học cấp tỉnh “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm sá sùng tại Khánh Hòa” đã ghi nhận những kết quả bước đầu: tạo được nguồn giống nhân tạo, đạt hiệu quả khá cao về kinh tế.
Đề tài do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III thực hiện trong 2 năm (từ tháng 10-2012 đến 10-2014), Từ tháng 3-2013, nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành thả giống 3 mô hình sá sùng thương phẩm trong ao nuôi ở huyện Vạn Ninh, tiếp đó là 3 mô hình tại huyện Cam Lâm.
Sau gần 20 năm nuôi thủy sản (tôm, cá…), ông Lê Châu (thôn Ninh Mã, xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh) đã trải qua nhiều thăng trầm do ô nhiễm môi trường, dịch bệnh. Sau đó, ông đã cải tạo một số đìa nuôi tôm không hiệu quả để nuôi thử nghiệm sá sùng, theo mô hình nuôi thuộc để tài nghiên cứu khoa học của Tiến sĩ Võ Thế Dũng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III. Với sự hỗ trợ về giống, thức ăn và hướng dẫn quy trình kỹ thuật nuôi, sau gần 6 tháng, đìa nuôi của ông đã có lứa sá sùng đầu tiên, đủ tiêu chuẩn đưa ra thị trường. Với mật độ thả 50 con/m2, sá sùng phát triển tốt, độ lớn đồng đều, tỷ lệ sống đạt khoảng 62% (chỉ tiêu dự kiến là 40%). Ước tính, 300m2 ao nuôi sẽ đạt khoảng 100kg. Với giá bán 200.000 đồng/kg, người nuôi có thể thu khoảng 20 triệu đồng. Trong khi đó, chi phí nuôi không cao. Ông Lê Châu cho biết: “Sá sùng rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế rất cao, hiện chưa thấy có dấu hiệu dịch bệnh. Tôi mong muốn Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III tập huấn kỹ thuật nuôi, nhân rộng mô hình này để người dân địa phương phát triển kinh tế”.
Trước tình trạng môi trường nuôi thủy sản bị ô nhiễm, việc tìm ra đối tượng nuôi mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng biển Khánh Hòa cũng như sự đầu tư của người dân địa phương là rất quan trọng. Với đặc điểm thích nghi với bùn đất, thức ăn là mùn bã hữu cơ, sá sùng có thể là đối tượng giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. Mặt khác, do giá trị dinh dưỡng cao nên nhu cầu của thị trường đối với sá sùng khá cao. Tuy nhiên, do bị khai thác cạn kiệt, sản lượng sá sùng tự nhiện không nhiều. Theo Tiến sĩ Võ Thế Dũng, đây là đối tượng nuôi rất tiềm năng, nếu đầu tư nghiên cứu thêm thì sẽ trở thành đối tượng phát triển thương mại, đồng thời tạo được nguồn giống nhân tạo. Một thuận lợi nữa là vốn đầu tư vào con sá sùng hiện nay không cao, công nghệ nuôi lại không phức tạp, và đến thời điểm này, độ an toàn của nó cao hơn các loại thủy sản khác. Tiến sĩ Võ Thế Dũng và nhóm thực hiện đề tài sẽ tiếp tục nghiên cứu nâng cao tỷ lệ sống của sá sùng (so với tỷ lệ sống 62% của mô hình), đồng thời rút ngắn thời gian nuôi.
Cũng trong khuôn khổ đề tài, nhóm nghiên cứu đã bước đầu theo dõi phòng và trừ một số bệnh của sá sùng. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu mô hình nuôi kết hợp sá sùng với một số đối tượng thủy sản khác, tìm hướng đi mới cho người nuôi. Nhóm nghiên cứu mong muốn được tiếp tục đầu tư phát triển đề tài, nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất giống, không những đảm bảo hiệu quả kinh tế, môi trường, phòng trừ dịch bệnh mà còn giúp người dân sản xuất sá sùng trên quy mô lớn.
Tiến sĩ Võ Thế Dũng: “Hiện nay chúng tôi đang từng bước nâng cao công nghệ sản xuất giống. Pha này chủ yếu là nhân mô hình nuôi thương phẩm và từ con giống đề tài sản xuất được. Năm 2014, chúng tôi sẽ mở lớp tập huấn để đào tạo kỹ thuật sản xuất giống nuôi thương phẩm cho người dân. Đồng thời, hỗ trợ một phần con giống cho để người dân có thể tự sản xuất, coi đó là một bước để quảng bá công nghệ - tìm hướng đi mới cho người dân”.
Có thể bạn quan tâm

Xuất phát từ việc một số ND trong xã đi buôn cây quất cảnh ở Văn Giang (Hưng Yên) vào mỗi dịp tết, thấy mức thu từ cây trồng này khá hấp dẫn, họ đã đem về xã trồng thử. Thấy có hiệu quả, phong trào trồng quất nở rộ và nhân rộng ra toàn xã.

Ông kể: Năm 2009, đang lúc loay hoay tìm giống mới để cải tạo vườn, ông được một người bạn giới thiệu giống mít cao sản. Ông lặn lội xuống tận Cái Mơn (huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) để mua giống về trồng thử. Lúc này, vườn nhà ông đang trồng xoài nhưng sâu bệnh nhiều, hiệu quả không cao.

Cây ngày có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nó đã được nhập vào ta từ rất lâu rồi. Trước đây, nó đã được trồng ở nhiều nơi như Bảo Lộc (Lâm Đồng), Sa Đéc (Đồng Tháp), Châu Đốc (An Giang)... Hiện nay, nó được trồng nhiều ở Cao Bằng và Lạng Sơn (nhiều nhất là huyện Tràng Định).

Tại Lâm Đồng, chè được trồng chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 8 (tốt nhất trồng trong tháng 6). Nhiệt độ 18 - 25 độ C, độ ẩm không khí 80 - 85% và lượng mưa hàng năm từ 1.500 - 2.000mm thích hợp nhất cho chè phát triển.

Nên bón thêm phân hữu cơ bởi phân hữu cơ không những cung cấp dinh dưỡng cho cây mà còn cải thiện tính chất vật lý, hóa học, sinh học trong đất. Nguồn phân hữu cơ bao gồm phân chuồng, phân xanh và các nguyên liệu ép xanh. Sử dụng phân hữu cơ sinh học có thành phần chính: Chất hữu cơ >25%; N 2,5-3%; P205 0,3%; K20 1-1,3%; lượng bón 2,5 tấn/ha/năm. Có thể sử dụng phân chuồng ủ hoai 20 - 25 tấn/ha, bón 3 năm/lần. Phân hữu cơ bón vào đầu mùa mưa, rạch hàng, bón lấp.