Sinh Trưởng Cá Măng Sữa Trong Đầm Nước Lợ

Nuôi cá măng trong các đìa theo kiểu truyền thống được thiết kế theo kiểu 1 ao nhỏ nuôi cá bột và 1 ao nuôi lớn với diện tích dao động từ 1 đến 50 héc ta thậm chí lên đến 100 héc ta. Thường thì cá bột được nuôi trong vòng 1 đến 2 tháng trong ao nuôi ươm giống và những loại cá này sẽ được chuyển giao đến ao nuôi chờ đến mùa vụ thu hoạch. Công việc chuẩn bị ao nuôi bao gồm sấy khô, diệt các loại bệnh dịch sau đó là bón vôi và bón phân.
Có 2 phương pháp được khuyến cáo đối với việc kiểm soát dịch bệnh: tro cây thuốc lá từ 300 đến 400kg trên héc ta hoặc hỗn hợp phân vôi với amoni sulfat ngậm nước(21-0-0) tỉ lệ 5:1 ở những vùng ẩm ướt của đáy ao trong những ngày nắng. Việc bón phân đều đặn sẽ duy trì việc tạo ra các loại thức ăn tự nhiên.
Sử dụng lưới dọc cũng có thể gia tăng 1 lượng thức ăn tự nhiên thông qua việc cung cấp bề mặt cho tảo phát triển. những ao nuôi chuyển giao hoặc ao nuôi nghèo dinh dưỡng sau thời kì ươm giống có thể gia tăng sản lượng bằng cách nuôi lớn cá con từ từ cho đến khi cần. Mật độ nuôi dự trữ dao động từ 1000 đến 3000 cá nhỏ trên héc ta phụ thuộc vào nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn và mục tiêu kích thước cá thu hoạch. Tương tự như vậy, sản lượng thu hoạch dao động từ 300kg đến 600kg cá trên vụ hay từ 600 đến 1.800 kg trên năm
Source: Milkfish Production and Processing Technologies in the Philippines
This project was funded by the Department of Agriculture - Bureau of Agricultural Research (BAR) and was made possible through the generous support and collaboration with the Southeast Asian Fisheries Development Center (SEAFDEC), the Bureau of Fisheries and Aquatic Resources (BFAR) and the University of the Philippines in the Visayas (UPV)
Tác giả: Wilfredo G. Yap, Antonio C. Villaluz, Ma. Gracia G. Soriano, and Mary Nia Santos
Có thể bạn quan tâm

Đặc trưng của phương pháp trên là sử dụng ao nhỏ hơn với kích thước từ 1 đến 5 héc ta, độ sâu tối thiểu 1 mét và gia tăng tỷ lệ cá giống từ 8000 con đến 12,000 con trong ao nuôi. Việc trao đổi nước thông qua mở rộng cửa, đào các mương nước và sử dụng các máy bơm.

Hệ thống này nhằm duy trì cân bằng giữa số lượng cá thể và nguồn thức ăn tự nhiên bằng cách thả định kì cá với nhiều kích cỡ và thu hoạch làm nhiều đợt.

Cá măng được nuôi chung với tôm,cua đen, cá dià, cá mú, cá rô phi, rong biển, động vật thân mềm và nhiều loại cá khác hoặc lứa cá nhỏ hoặc lứa trung. Nhưng nuôi ghép cá măng với tôm hoặc cua là phổ biến và có lợi nhuận cao nhất.

Nuôi cá măng thâm canh yêu cầu ao nuôi thương phẩm với diện tích nhỏ hơn (0,1-1 héc ta) nhưng sâu hơn (từ 1-2 mét), vốn đầu tư và vốn lưu động lớn cũng như trình độ kĩ thuật cao. Hình thức nuôi này cho thu từ 2 đến 3 vụ cá trên năm và sản lượng cá đạt 12 tấn trên ha nhưng cũng tiềm ẩn những rủi ro cao.

Bè cá bao gồm 1 lưới hàng rào bao bên ngoài với 7 nút lưới và 1 lưới bao bên trong với mắt lưới nhỏ hơn (17 nút). Kích thước của bè cá dao động từ 1 ha đến tối đa là 50 ha(tối đa cho phép ở Vịnh Laguna. Ở những hồ nhiều sinh vật phù du thì cá măng chủ yếu ăn sinh vật phù du và các loại cỏ dưới đáy ao.