RAT Việt Nam Mắc Ở Khâu Quản Lý Và Người Tiêu Dùng

Đây là đánh giá của các chuyên gia trong việc sản xuất, tiêu thụ RAT ở Việt Nam tại diễn đàn nhóm hỗ trợ quốc tế (ISG) về an toàn thực phẩm diễn ra chiều ngày 25/11, do Bộ NN&PTNT tổ chức.
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu nhấn mạnh, mặc dù một số địa phương đã xây dựng được thương hiệu, chứng chỉ cho sản phẩm rau an toàn (RAT) nhưng tỷ lệ người dân được sử dụng chưa cao. Điều đó cho thấy trong chuỗi sản xuất, cung ứng và việc ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của nước ta còn nhiều bất cập.
Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay trong việc sản xuất, tiêu thụ RAT của Việt Nam còn mắc ở khâu quản lý và mức độ yêu cầu của người tiêu dùng. Do đó, diễn đàn lần này là cơ hội để nhìn nhận toàn diện thị trường nội địa và xuất khẩu. Đồng thời, tạo ra sự phối hợp liên kết và xây dựng khung pháp lý kiểm soát tốt chuỗi sản xuất RAT, đặc biệt là học tập kinh nghiệm của một số nước như Nhật Bản, Pháp, Ireland...
Thời gian qua, Việt Nam đã phát triển được một số chuỗi quản lý RAT từ một số dự án của Đan Mạch, Canada, Nhật Bản nhưng khi kết thúc dự án thì rất khó duy trì do thiếu kinh phí. Bởi vậy, Bộ NN&PTNT bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của quốc tế trong vấn đề xây dựng các chuỗi nông sản an toàn bền vững, trong đó có RAT.
Theo Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT), diện tích sản xuất rau trên toàn quốc là hơn 823.800ha, trong đó 120.000ha chuyên canh, 430.000ha luân canh. Sản lượng rau đạt 14 triệu tấn, trong đó, tiêu dùng trong nước chiếm 85%, còn lại xuất khẩu. Mặc dù chủng loại rau rất đa dạng và phong phú nhưng quy mô sản xuất hiện còn nhỏ lẻ, manh mún.
Đối với RAT, diện tích quy hoạch đến đầu năm 2013 là 71.728ha, trong đó diện tích đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất RAT là 6.310ha; diện tích được cấp giấy chứng nhận VietGAP và các GAP khác là 491ha; diện tích sản xuất theo hướng an toàn là 16.797ha.
Có thể bạn quan tâm

Vùng Bảy Núi (An Giang) với đặc điểm địa hình bán sơn địa, khá thích hợp với các mô hình đa canh và xen canh. Hơn nữa, vườn đồi, vườn rừng núi Cấm đa số trồng nhiều loài cây, như: Xoài, mít, vú sữa, sầu riêng…là những loại cây có thể tận dụng cho dây tiêu đeo bám.

Theo thống kê của ngành nông nghiệp, hiện toàn tỉnh trồng khoảng trên 8.700 ha mía, trong đó, khoảng 6.000 ha mía tím, các địa phương trồng nhiều nhất là Cao Phong 2.492 ha, Kim Bôi 1.074 ha, Tân Lạc 1.515 ha, Yên Thủy 1.491 ha. Cây mía tím cho hiệu quả kinh tế cao, được coi là cây giảm nghèo của người nông dân trên địa bàn tỉnh.

Nhìn chung, mô hình vẫn áp dụng những kỹ thuật canh tác tiên tiến mà nông dân đã ứng dụng trước đó như: xuống giống lúa đồng loạt để “né” rầy, chương trình IPM, “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm” kết hợp trồng các loại hoa màu sắc sặc sỡ trên bờ ruộng để dẫn dụ thiên địch ăn các loại côn trùng có hại như: rầy nâu, sâu cuốn lá, nhện gié…

Nhờ được cơ quan khuyến nông xây dựng mô hình sản xuất và chuyển giao các giống mì cao sản nên hầu hết diện tích mì ở đây được trồng các giống mì mới như: KM 94, KM 98, KM 140. Hiện nông dân Phù Cát đang vào chính vụ thu hoạch mì, nhưng giá mì tươi giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, làm người trồng mì rất lo lắng.

Dù thời gian canh tác kéo dài, năng suất thấp nhưng lúa mùa nổi đang cho thấy những lợi thế mà lúa cao sản ngắn ngày không có được. Đó là khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, làm nền cho canh tác màu theo hướng tạo ra nông sản sạch… Quan trọng hơn, nông dân hoàn toàn có thể nghĩ đến chuyện làm giàu trên ruộng lúa mùa nổi.