Quy Trình Thủ Tục Đăng Ký Gây Nuôi Động Vật Hoang Dã

Để quản lý tốt các cơ sở nuôi nhốt động vật hoang dã, việc phối hợp chặt chẽ giữa ngành chức năng với chính quyền địa phương, bà con chăn nuôi nhằm làm rõ ràng nguồn gốc gây nuôi động vật hoang dã trên địa bàn là việc làm quan trọng.
Qua đó sẽ giúp ngành chức năng quản lý tốt số lượng gây nuôi động vật hoang dã ở địa phương, đồng thời tạo điều kiện để mô hình chăn nuôi ngày càng phát triển.
Việc gây nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng hiện nay khá phát triển nhưng phần lớn còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ. Do đó sản phẩm không có đầu ra, khiến các hộ chăn nuôi thường gặp khó khăn.
Còn nhiều hộ khi gây nuôi động vật hoang dã không thông báo cho cơ quan chức năng nên việc quản lý cũng còn những hạn chế nhất định. Tuy nhiên cũng có những hộ chăn nuôi với quy mô khá lớn, thực hiện đúng trình tự thủ tục gây nuôi động vật hoang dã, nên đạt được hiệu quả cao.
Như cơ sở gây nuôi ba ba giống và ba ba thịt của gia đình anh Trần Minh Lanh ở ấp Phương Hòa 1, xã Hưng Phú, huyện Mỹ Tú. Với diện tích rộng hơn 3 ha, hiện tại anh Lanh đã có đàn ba ba các loại trên 100.000 con. Trong đó hơn 40.000 con là ba ba trưởng thành làm giống sinh sản và ba ba thịt.
Có được cơ ngơi này là cả quá trình hơn 10 năm gầy dựng; Anh Lanh cho biết năm 2001, gia đình anh nuôi thử 500 con ba ba nhưng gặp không ít khó khăn do thiếu kiến thức kỹ thuật; Kể cả vài năm sau đó việc nuôi ba ba của anh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nhờ tính năng động ham học hỏi của tuổi trẻ, anh đã miệt mài tìm hiểu, nắm bắt kỹ thuật nuôi từ sách báo và các phương tiện thông tin.
Tuy nhiên điều quan trọng để thành công trong nghề này với anh là vừa làm vừa rút kinh nghiệm sau những vụ nuôi thất bại.
Với việc chăn nuôi quy mô lớn có đăng ký thủ tục với ngành chức năng, đã tạo điều kiện cho việc gây nuôi động vật hoang dã của hộ anh Trần Minh Lanh thuận lợi hơn từ khâu mua bán giống, đến việc xuất bán ba ba thịt; Theo anh Lanh việc đăng ký rõ ràng này mang đến nhiều lợi ích cho gia đình, đây cũng là yếu tố quan trọng để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Gây nuôi động vật hoang dã là một trong những biện pháp bảo tồn nguồn gen, hạn chế đánh bắt từ tự nhiên đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên nếu không quản lý tốt sẽ xảy ra tình trạng bẫy bắt, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã.
Việc đảm bảo an toàn sinh học ở các cơ sở nuôi nhốt nếu không được quan tâm đúng mức, có thể dẫn đến nhiều hệ lụy liên quan đến con người, môi trường, bởi động vật hoang dã phần lớn rất nguy hiểm như Cá sấu, Trăn đất.
Theo ông Dương Tấn Vũ, Phòng pháp chế chi cục kiểm lâm Sóc Trăng có đánh giá “ Để quản lý có hiệu quả các cơ sở gây nuôi động vật hoang dã, Chi cục Kiểm lâm Sóc Trăng phải hướng dẫn người nuôi thực hiện tốt những quy định khi gây nuôi động vật hoang dã. Đồng thời đưa ra nhiều giải pháp quản lý trên cơ sở các quy định của Nhà nước, nhằm quản lý, bảo vệ, bảo tồn, phát triển động vật hoang dã trên địa bàn tỉnh, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở gây nuôi thực hiện tốt quy định pháp luật”.
Có thể bạn quan tâm

Anh Nguyễn Hoàng Phi ở ấp Hòa Thạnh, xã Châu Phong, TX. Tân Châu, An Giang đã sáng chế và ứng dụng thành công máy phun thuốc điều khiển từ xa và tự động cuộn dây trên đồng. Chiếc máy đoạt giải 3 tại Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật tỉnh An Giang năm 2012 và anh đã ra Hà Nội tham gia chương trình Nhà sáng chế trên VTV2 vào cuối tháng 3/2013 vừa qua.

Thời điểm năm 2010 và 2011, khi dịch bệnh “tai xanh” hoành hành trên đàn heo, anh Trần Đình Hiển (ấp 9, xã An Linh, Phú Giáo, Bình Dương) lại thắng lớn với lợi nhuận gần 1 tỷ đồng từ trại heo của mình nhờ đàn heo không dính dịch bệnh “tai xanh”. Để có được kết quả này, anh Hiển đã áp dụng mô hình nuôi heo trại lạnh. Đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao và là hướng đi bền vững cho người chăn nuôi heo trong bối cảnh dịch bệnh thường xuyên hoành hành như hiện nay.

Thời gian qua, do thời tiết nắng mưa xen kẽ, đêm và sáng có sương mù, độ ẩm cao đã tạo điều kiện cho bệnh phấn trắng trên cây cao su phát triển.

Mô hình tôm - lúa (1 vụ tôm, 1 vụ lúa) đã khẳng định được tính hiệu quả cũng như tính thích nghi đối với khu vực ven biển ĐBSCL; tiềm năng mỗi năm có thể mở rộng SX lên 200.000 - 250.000 ha, sản lượng đạt khoảng 1 triệu tấn lúa hữu cơ, đặc sản và trên 100.000 tấn tôm sạch phục vụ nhu cầu chế biến XK.

Trong khi một số nhà máy sản xuất hạt điều xuất khẩu lớn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thiếu nguyên liệu, phải thường xuyên nhập khẩu thì nông dân trồng điều lại không dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Nghịch lý trên tồn tại nhiều năm qua, một phần do thiếu sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ.