Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Quản Lý Hầm Tôm Công Nghiệp Trước Tình Hình Dịch Bệnh Tràn Lan

Quản Lý Hầm Tôm Công Nghiệp Trước Tình Hình Dịch Bệnh Tràn Lan
Ngày đăng: 19/10/2013

Vụ mùa năm 2011-2012 và những tháng đầu năm của năm 2013, ở Cà Mau, dịch bệnh tôm chết gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi tôm công nghiệp.

Đến nay vẫn chưa có kết luận chính xác nguyên nhân tôm chết và cũng chưa có giải pháp khắc phục tôm chết hiệu quả.

Sau đây là những khuyến cáo được rút ra từ kinh nghiệm của người có thâm niên trong nghề nuôi tôm công nghiệp ở Cà Mau - ông Trần Văn Của, Chủ tịch Hội Thuỷ sản tỉnh Cà Mau.

Năm 2011, Viện Nuôi trồng thuỷ sản II kết luận tôm chết do ngộ độc tố thuốc trừ sâu. Kết luận đó cơ bản là đúng, nhưng theo ông Của, trong thực tế, còn một nguyên nhân cơ bản nữa là do môi trường ngộ độc không khí (khí hậu biến đổi bất thường gây ra hiện tượng tôm chết đột ngột).

Qua khảo sát trên 10 khu vực có tôm bị bệnh ở cả 3 đơn vị: Đầm Dơi, Cái Nước, TP Cà Mau, tôm chết từ 70-90%, một số nguyên nhân được ông Của rút ra như sau:

Những đầm nuôi có nhiều vụ nuôi liên tiếp, đất bị thoái hoá, ô nhiễm. Nguồn nước cấp không bảo đảm, thiếu đầm lắng, lọc chưa được tốt. Xử lý diệt khuẩn thường có chất thuốc trừ sâu hoặc dùng thuốc diệt khuẩn cao, làm tồn lưu, ô nhiễm nguồn nước và đáy đầm nuôi tôm. Xung quanh đầm nuôi là một vùng đất trống, không có cây cỏ để điều hoà, ổn định môi trường.

Ông Của còn cho biết thêm: “Bên cạnh những đầm nuôi thất bại thì chúng tôi cũng khảo sát những đầm nuôi thành công, qua đó thấy được rằng, trong những đầm nuôi thành công thường có đầm lắng ít nhất bằng 25-30% diện tích của đầm nuôi. Cải tạo đầm bảo đảm sạch đất ô nhiễm, nhất là đáy đầm nuôi. Xung quanh đầm nuôi trồng cây xanh tạo thảm thực vật, chiếm ít nhất 20% của diện tích nuôi tôm.

Về khâu lấy nước: lắng, lọc chu đáo nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm. Xử lý nước diệt khuẩn, các chất không có nguồn gốc thuốc trừ sâu. Trong quá trình nuôi dùng vi sinh, khoáng chất suốt vụ nuôi. Thả tôm nuôi mật độ thưa: Giống có xét nghiệm PCR, sú thả từ 12-18 con/m2, thẻ thả từ 50-70 con/m2. Thức ăn chất lượng tốt, quản lý thức ăn không thiếu, không thừa. Bảo đảm quạt cung cấp ô-xy đều và đủ”.

Bằng kinh nghiệm thực tế từ nhiều năm nuôi thành công, ông Trần Văn Của kết luận: Nguyên nhân chính khiến tôm chết đột ngột và kéo dài là do nhiễm độc thuốc trừ sâu và ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí; khi thời tiết thay đổi nhanh vượt quá sự chịu đựng.

Để hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người nuôi, chúng tôi xin khuyến cáo một số cách phòng ngừa dịch bệnh trên đầm tôm công nghiệp như sau:

1. Về quy hoạch nuôi tôm công nghiệp nên tính đến môi trường, khí hậu, thảm thực vật cho con tôm sống và phát triển.

2. Về xây dựng đầm nuôi, phải có đầm lắng nước chiếm từ 25-30% diện tích đầm nuôi (bảo đảm lắng nước cung cấp vào đầm nuôi).

Xung quanh đầm nuôi phải giữ phần bờ đê trồng cây xanh (không trồng cây bạch đàn, tràm gió, những loại cây có chứa tinh dầu), thảm thực vật chiếm 20-30% của diện tích nuôi (đây là điều kiện quan trọng điều hoà khí hậu để tôm sống). Đầm nuôi phải được phơi khô và không có sình đen, ô nhiễm đáy đầm.

Phải có kinh lấy nước, thoát nước riêng. Khi lấy nước đưa vào đầm lắng phải bảo đảm không bị ô nhiễm. Xử lý, diệt giáp xác, vi khuẩn, không sử dụng hoá chất có nguồn gốc thuốc trừ sâu. Nên dùng vi sinh khoáng chất suốt vụ nuôi.

3. Thả tôm giống phải xét nghiệm PCR. Mật độ thả nuôi, tôm sú từ 12-18 con/m2, tôm thẻ chân trắng từ 50-70 con/m2 (thả thưa). Thức ăn phải bảo đảm chất lượng tốt.

4. Quản lý thức ăn trong quá trình nuôi tốt, cho tôm ăn không dư, không thiếu. Quạt cung cấp ô-xy bảo đảm đủ, theo dõi không để thiếu ô-xy. Quá trình nuôi phải theo dõi chặt chẽ diễn biến tôm suốt vụ nuôi để xử lý kịp thời.

5. Sử dụng hoá chất diệt khuẩn: Cần hạn chế diệt khuẩn liên tục, nếu thấy tôm trong đầm nước bị nhiễm khuẩn thì mới diệt khuẩn, khi diệt khuẩn xong sau 24-48 giờ thì dùng khoáng chất, vi sinh suốt vụ nuôi.

Đã kiểm chứng qua thực tế, những người nuôi tôm tuân thủ quy trình này đều đạt hiệu quả. Trong 2 năm gần đây thời tiết thay đổi liên tục, gây thiệt hại lớn đối với người nuôi tôm nên không cách nào khác là phải chủ động tìm cách khắc phục.


Có thể bạn quan tâm

Nuôi Thủy Sản Trên Vùng Đất Phèn Nuôi Thủy Sản Trên Vùng Đất Phèn

Cùng với hành trình khai hoang, cải hóa Đồng Tháp Mười, vùng đất nhiễm phèn nặng dần dần được chuyển hóa tạo điều kiện cho nhiều loài thủy sản có điều kiện sinh sống và phát triển.

21/07/2014
Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Cú Huých Cho Ngành Nông Nghiệp Phát Triển Nông Nghiệp Hữu Cơ Cú Huých Cho Ngành Nông Nghiệp

Thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), mỗi năm Việt Nam sử dụng 10 triệu tấn phân bón các loại và đang là một trong những nước sử dụng phân bón/đơn vị diện tích cao nhất trên thế giới. Trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã nhập và sử dụng từ 70 nghìn đến 100 nghìn tấn hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) thành phẩm để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điều này khiến một lượng lớn hóa chất BVTV tồn lưu, gây nguy hại cho sức khỏe con người cũng như môi trường.

08/12/2014
Quảng Ninh Sản Xuất Thành Công Giống Cá Song Chấm Nâu Quảng Ninh Sản Xuất Thành Công Giống Cá Song Chấm Nâu

Với trên 21km bờ biển cùng với hàng ngàn ha bãi triều, Đầm Hà (Quảng Ninh) thực sự giàu tiềm năng phát triển nghề nuôi trồng hải sản, đặc biệt là những loài hải sản có giá trị kinh tế cao như cá song, cá vược, cua, ngao, tu hài...

22/07/2014
Sản Lượng Khai Thác Thủy Sản Huyện Quảng Xương (Thanh Hoá) Ước Đạt 8.749 Tấn Sản Lượng Khai Thác Thủy Sản Huyện Quảng Xương (Thanh Hoá) Ước Đạt 8.749 Tấn

6 tháng đầu năm 2014, tổng sản lượng khai thác thủy sản của huyện Quảng Xương ước đạt 8.749 tấn, tăng 3% so với cùng kỳ, bằng 52,1% kế hoạch; sản lượng chế biến đông lạnh đạt 90.000 tấn, sản phẩm khô 7.500 tấn, nước mắm 8.400 lít, sản phẩm dạng mắm đạt 700 tấn. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 2.367 tấn, tăng 25% so với cùng kỳ, đạt 56,4% kế hoạch.

22/07/2014
Thái Bình Nuôi Trồng Thủy Sản 6 Tháng Đầu Năm Những Tín Hiệu Vui Thái Bình Nuôi Trồng Thủy Sản 6 Tháng Đầu Năm Những Tín Hiệu Vui

Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản (NTTS), tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn toàn tỉnh Thái Bình 6 tháng đầu năm 2014 ước đạt 14.462 ha, tổng sản lượng nuôi trồng ước đạt 47.890 tấn, tăng 1.778 tấn (3,86%) so với cùng kỳ năm 2013; giá trị sản xuất ước đạt 1.034 tỷ đồng, tăng 38.2 tỷ đồng (3,83%) so với cùng kỳ năm 2013.

22/07/2014