Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Phát Triển Cây Chè Hàng Hóa Hướng Tới Sản Xuất Bền Vững

Phát Triển Cây Chè Hàng Hóa Hướng Tới Sản Xuất Bền Vững
Ngày đăng: 16/01/2015

Với gần 5.000 ha, hiện Lào Cai đứng thứ 6 trong số 18 tỉnh trung du miền núi phía Bắc về diện tích chè. Sản lượng chè của toàn tỉnh năm 2014 đạt 16.200 tấn búp tươi, doanh thu đạt trên 100 tỷ đồng. Điểm đáng chú ý là ngành nông nghiệp đã có những định hướng quan trọng trong mục tiêu phát triển bền vững cây chè hàng hóa.

Có thu nhập ổn định hơn 4 triệu đồng/tháng là “trái ngọt” đối với gia đình chị Thào Thị Dín, xã Xuân Hòa (Bảo Yên). Cũng như bao gia đình vùng cao khác vốn chỉ quen việc trồng ngô, sắn, nên cuộc sống vẫn cứ mãi khó khăn. Trồng 0,3 ha chè từ năm 2005, hiện diện tích chè đang cho năng suất ổn định từ 2 - 3 lứa/tháng vào mùa rộ, mỗi lứa thu 600 - 700 kg chè búp tươi, trở thành nguồn thu chủ yếu của gia đình chị Dín.
Hiện, xã Xuân Hòa có 300 hộ trồng chè với diện tích 90 ha, đây là một trong những vùng trồng chè trọng điểm của huyện, toàn xã có sản lượng chè búp tươi khoảng 400 tấn mỗi năm, nguồn thu khoảng 2,4 tỷ đồng. Cùng với cây lúa, cây chè được cấp ủy, chính quyền xã Xuân Hòa xác định là cây mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp.
Toàn huyện Bảo Yên hiện có hơn 309 ha chè hàng hóa, sản lượng năm 2014 đạt hơn 1.000 tấn, doanh thu hơn 7 tỷ đồng. So với nhiều địa phương khác trong tỉnh, Bảo Yên có diện tích chè khá khiêm tốn nên huyện đã có hướng mở rộng diện tích cây công nghiệp này trong những năm tới.
Huyện Mường Khương là địa phương có diện tích trồng chè lớn nhất tỉnh với hơn 2.000 ha; trong đó, 60% diện tích chè kinh doanh, sản lượng chè búp tươi cả huyện năm 2014 đạt khoảng 6.500 tấn, giá trị sản lượng đạt trên 40 tỷ đồng, thu nhập bình quân đạt 35 triệu đồng/ha.
Những năm qua, nhiều hộ trên địa bàn huyện đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm từ chè. Đơn cử như gia đình ông Lý Xuân Bính, thôn Tà San, xã Lùng Vai. Với hơn 1 ha chè được trồng từ năm 2003, mỗi tháng gia đình ông Bính thu hoạch hơn 2 tấn chè búp tươi, đem lại nguồn thu từ 5 - 7 triệu đồng.
Toàn tỉnh hiện có 4.587 ha chè, các huyện có diện tích chè lớn là Mường Khương, Bảo Thắng, Bắc Hà, Bát Xát, thành phố Lào Cai và Bảo Yên. Cây chè tiếp tục được ngành nông nghiệp xác định phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại nhiều địa phương, đặc biệt là có thể trồng trên đất đồi, đất bạc màu.
Trong những năm gần đây, năng suất, sản lượng cây chè đã có sự chuyển biến tích cực, năm 2014 sản lượng chè đạt 16.200 tấn chè búp tươi, tăng 3.800 tấn so với năm 2010. Với giá chè búp tươi đang được thu mua trung bình từ 5.500 - 6.000 đồng/kg, chè chất lượng cao từ 12.000 đồng - 15.000 đồng/kg, doanh thu ngành chè trong năm 2014 đạt trên 100 tỷ đồng.
Trên địa bàn tỉnh hiện có 7 cơ sở chế biến chè (có 3 nhà máy và 4 xưởng chế biến), tổng công suất đạt 100 tấn chè búp tươi/ngày và khoảng 300 lò chế biến nhỏ có quy mô hộ gia đình. Tuy nhiên, ngành chè đang gặp khó khăn là tổng nguồn nguyên liệu chỉ đáp ứng được 2/3 công suất thiết kế của các cơ sở chế biến, trong khi tình hình cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần, đối tượng thu mua nguyên liệu đang khá phổ biến. Sự thiếu gắn kết giữa các hộ trồng chè với doanh nghiệp thu mua, doanh nghiệp đầu tư trồng chè cũng là cản trở không nhỏ đối với sự phát triển của cây chè.
Về sản xuất, một số nơi trồng chè không đảm bảo mật độ khiến năng suất thấp, dây chuyền công nghệ chế biến chè cũng chưa thực sự đồng bộ, sản phẩm chè sau chế biến chưa đa dạng, nên thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Hiện, vẫn còn một tỷ lệ lớn sản lượng chè sau chế biến dành cho xuất khẩu dạng sản phẩm thô, thị trường nội địa bị bỏ trống, trong khi đây mới là thị trường tiềm năng và ổn định.
Về định hướng phát triển bền vững ngành chè, ông Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, mục tiêu quan trọng đặt ra là hết năm 2015, diện tích cây chè phải đạt 5.000 ha và đến năm 2020 là trên 6.000 ha.
Đó là mục tiêu lớn, nên để thực hiện thành công cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng với địa phương trong bố trí quỹ đất, chính sách phân vùng quản lý, hạn chế vấn đề cạnh tranh không lành mạnh về thu mua nguyên liệu. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các hộ trồng chè về thâm canh tăng năng suất, củng cố sự gắn kết giữa “bốn nhà” trong sản xuất cây chè.


Có thể bạn quan tâm

Lên Núi Trồng Rừng, Nuôi Bò Mà Thành Triệu Phú Lên Núi Trồng Rừng, Nuôi Bò Mà Thành Triệu Phú

Mang quyết tâm đổi đời lên quê hương mới, vợ chồng trẻ dựng tạm căn lều nhỏ, ngày đêm chịu khó khai hoang đất đồi trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. “Ngày đó vùng này hoang vu lắm, có đêm nằm ngủ trong lều, thú dữ cứ gầm rú bên ngoài sợ đến kinh hoàng. Bữa ăn thì chỉ toàn rau rừng, lâu lâu đi chặt bó củi về miền xuôi bán mới mua được miếng thịt cải thiện bữa ăn”– anh Tánh nhớ lại tháng ngày cơ cực.

24/11/2014
Ðất Trống, Đồi Trọc Đã Xanh Rừng Ðất Trống, Đồi Trọc Đã Xanh Rừng

Những năm qua, tỉnh Quảng Trị triển khai tốt công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Phong trào trồng rừng đã tạo ra sức sống mới cho nhiều vùng đất trống, đồi núi trọc, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa.

24/11/2014
Võ Nhai Trồng Mới 870 Ha Rừng Võ Nhai Trồng Mới 870 Ha Rừng

Cùng với trồng rừng mới, công tác quản lý, bảo vệ rừng cũng được huyện quan tâm thực hiện. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn toàn huyện không để xảy ra vụ cháy rừng nào nghiêm trọng nào. UBND huyện cũng đã cấp 12 giấy phép khai thác rừng với tổng khối lượng gần 680m3 gỗ các loại.

24/11/2014
Hiệu Quả Bước Đầu Mô Hình Nuôi Thỏ Newzealand Tại Huyện Hậu Lộc Hiệu Quả Bước Đầu Mô Hình Nuôi Thỏ Newzealand Tại Huyện Hậu Lộc

Mô hình chăn nuôi thỏ Newzealand quy mô nông hộ có nhiều ưu điểm như: tận dụng được tối đa nguồn thức ăn sẵn có là các loại rau, cỏ dại tại địa phương; ít dịch bệnh, quay vòng vốn nhanh. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho chăn nuôi thỏ không quá tốn kém, phù hợp với quy mô chăn nuôi của đại đa số nông hộ.

24/11/2014
“Thất Bát” Xuất Khẩu Chè Cả Năm “Thất Bát” Xuất Khẩu Chè Cả Năm

Từ đầu năm đến nay, XK chè chưa có tháng nào thực sự “khởi sắc” khi lượng XK thường xuyên giảm, còn giá trị XK có tăng cũng chỉ “nhích” nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, so với 2013, cả năm 2014 lượng chè XK sẽ sụt giảm tới 10%, trong khi giá trị XK tăng khoảng 6%.

24/11/2014