Phạm vi để tăng cường các qui trình khử trùng RAS?

Nghiên cứu mới về thực hành khử trùng trong các trại nuôi cá hồi tuần hoàn trên đất liền ở Na Uy và Bắc Mỹ có thể được sử dụng để tạo ra các tiêu chuẩn mới để tăng hiệu quả và ngăn ngừa bùng phát dịch bệnh.
Nofima's RAS in Sunndal. Ảnh: Terje Aamodt, Nofima
Vì vậy sự tranh luận của nhà khoa học Nofima , Carlo C Lazado and Chris Good và Chris Good của Viện nước ngọt Quỹ bảo tồn, người mà gần đây đã xuất bản một bài viết có tiêu đề những phát hiện khảo sát về chiến lược khử trùng tại một số cơ sở RAS trên đất liền của Na UY và Bắc Mỹ: Một sự so sánh sâu sắc. Công việc khảo sát đã được thực hiện tại trung tâm CtrlAQUA cho sự nghiên cứu dựa trên sự đổi mới.
Có các tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt trong các cơ sở trên đất liền. Khử trùng là biện pháp an toàn quan trọng để ngăn chặn sự lây lan của mầm bệnh có thể gây bệnh cho cá. Ấn phẩm dựa trên các phản hồi của một cuộc khảo sát, cho thấy sự khác biệt và tương đồng trong việc khử trùng các thiết bị tại 25 cơ sở RAS của Na UY, Mỹ và Canada.
“ Ở Na Uy, sản lượng cá hồi trong các cơ sở RAS đang tăng nhanh chống, đó là lý do tại sao chúng tôi đang đánh giá các hoạt động hiện tại để nghành có cơ sở điều chỉnh các quy trình trong tương lai” , Carlo C Lazado cho biết.
Qui Trình khử trùng
Phần đầu tiên của cuộc khảo sát là chiến lược khử trùng chung cho thiết bị.
Phần lớn người Na Uy được hỏi và hơn 90% người Bắc Mỹ được hỏi, nói rằng họ sử dụng qui trình tiêu chuẩn khi khử trùng. Nói cách khác, họ tuân theo khuyến nghị của nhà sản xuất để sử dụng.
“ Nhiều yếu tố ảnh hưởng như thế nào đến thiết bị đã được khử trùng, chẳng hạn như loại vật liệu, nhiệt độ và độ ẩm. Sản phẩm khử trùng phải được thí nghiệm thực tế tại một số cơ sở để tìm hiểu hiệu quả của nó trong các điều kiện khác nhau. Cuộc khảo sát tiết lộ rằng nhiều người không nhận thức được như thế nào hiệu quả việc khử trùng đối với cơ sở RAS của họ”, Lazado cho biết.
Các loại chất khử trùng
Các nhà khoa học sau đó đã hỏi loại chất khử trùng nào đã được sử dụng tại các cơ sở và tại sao. Câu trả lời chỉ ra rằng một số chất khử trùng khác nhau đã được sử dụng trong tất cả các cơ sở. Ở Na Uy, chất khử trùng gốc axit peracetic được sử dụng chính, nhưng cũng có Clo. Ở các cơ sở Bắc Mỹ, Clo và natri hypochlorite được sử dụng chủ yếu, Sự khác nhau có thể bởi vì thực tế là nhiều sản phẩm dựa trên axit peracetic đã được chấp thuận ở Na UY, so với sản phẩm dựa trên Clo. Tất cả những người được hỏi đều cho rằng hiệu quả chống lại mầm bệnh và an toàn cho người sử dụng là những tiêu chí chính liên quan đến việc lựa chọn tác nhân.
Sự khác biệt về khu vực
Phần ba của cuộc khảo sát là việc khử trùng thiết bị trong các cơ sở.
Xấp xỉ 40% người Na Uy trả lời rằng họ khử trùng bể chứa và đường ống sau mỗi chu kỳ sản xuất, trong khi 60% người Bắc Mỹ được hỏi nói rằng họ cũng đã làm giống như vậy.
Khoảng thời gian tiếp xúc với chất khử trùng thay đổi giữa 12 và 24 giờ tại các cơ sở của Na UY, trong khi ở Bắc Mỹ có sự thay đổi lớn hơn. Ở đó, khoảng thời gian tiếp xúc là từ 1 tới 2 giờ.
“Sự thay đổi lớn hơn trong khoảng thời gian tiếp xúc có thể cho thấy rằng họ có các chiến lược cấu trúc, và phần nào có nhiều khinh nghiệm về hiệu quả khử trùng. Điều này phản ảnh trong thực tại rằng hầu hết các các cơ sở ở Bắc Mỹ có thời gian hoạt động lâu hơn so với các cơ sở ở Na Uy”. Lazado nói.
Chế độ đào tạo
Tất cả những người được hỏi đều nói rằng nhân viên tại các cơ sở được đào tạo cần thiết về việc sử dụng chất khử trùng và thiêt bị bảo hộ, và tuân thủ các qui định của địa phương. Tất cả các cơ sở có qui trình an toàn riêng, nhưng không có thông tin tổng quan về cách thực hành và cách quản lý các quy trình này.
Các nhà khoa học kết luận rằng các cơ sở RAS ở cả Na Uy và Bắc Mỹ có thể hệ thống hóa các chiến lược khử trùng của họ một cách thuận lợi.
Kết quả của cuộc khảo sát sẽ có giá trị để phát triển các hướng dẫn khử trùng RAS phổ biến.
Có thể bạn quan tâm

UBND tỉnh Bắc Giang vừa phê duyệt đề án phát triển vùng chăn nuôi thủy sản tập trung đạt tiêu chuẩn VietGAP giai đoạn 2016 - 2020 với tổng kinh phí hơn 50 tỷ đồng, trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ gần 7,4 tỷ đồng, còn lại là đối ứng của người dân.

Cá biển chết hàng loạt trong những ngày vừa qua làm người tiêu dùng ở Quảng Trị hết sức lo lắng. Bây giờ, đối với họ, cá nước ngọt được nuôi tại các ao hồ địa phương đang là sự lựa chọn cho bữa ăn của gia đình. Nhờ vậy một số hộ nuôi đã kiếm thêm được một nguồn thu nhập đáng kể còn tiểu thương ở các khu chợ thì nhanh nhạy chuyển đổi để phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.

Thời tiết khắc nghiệt những ngày qua ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng cá chình, cá bống tượng của nông dân TP Cà Mau hơn bao giờ hết, nông dân TP Cà Mau rơi vào cảnh đứng ngồi không yên.

Nắng nóng khiến độ mặn tại các ao nuôi Artemia ở Vĩnh Châu (Sóc Trăng) tăng cao, ảnh hưởng rất lớn đến việc cho trứng của Artemia. Hiện nay một số hộ đã chuyển sang làm muối, phần lớn các hộ khác vẫn tiếp tục nuôi và chờ mưa để Artemia cho trứng trở lại.

Thời gian qua, việc giải ngân nguồn vốn hỗ trợ nông dân đóng mới tàu thuyền đã được các ngân hàng thương mại thực hiện. Tuy nhiên, mong muốn của bà con ngư dân, cũng như một số địa phương là cần có nguồn vốn mạnh hơn nữa để ngày càng có thêm nhiều con tàu mới ra khơi theo Nghị định 67.