Nuôi rắn hổ vện cho thu nhập cao

Anh Lâm cho biết, thời gian đầu nuôi rắn trong chuồng lưới, bể nhưng hiệu quả chưa cao do những con rắn to, khỏe thường dành thức ăn, thậm chí ăn cả những con rắn nhỏ; nhất là trong thời kỳ giao phối, rắn đực rất hung dữ, chúng thường cắn nhau.
Qua tìm hiểu mô hình nuôi rắn hổ vện tại các địa phương khác, anh đã xây dựng chuồng gạch dạng hộc tủ. Từ 30 chuồng ban đầu, nay anh đã phát triển lên 200 chuồng.
“Nuôi rắn trong chuồng gạch ban đầu tuy tốn kém vốn hơn cách nuôi trong chuồng lưới, bể nhưng tiết kiệm được diện tích và có thể nuôi ngay trong nhà ở của mình.
Cái tiện lợi nữa là con nào bỏ ăn hay bệnh là mình nhận biết ngay, do mỗi con một hộc, không lẫn lộn với con khác, không lây bệnh và dễ dàng vệ sinh. Từ khi áp dụng cách nuôi này, tỷ lệ hao hụt giảm nhiều, tôi có lời là nhờ đó”, anh Lâm chia sẻ.
Rắn hổ vện là loài động vật hoang dã mới được thuần hóa nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh, có khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng.
Thức ăn chính của rắn hổ vện là cóc, nhái... và chỉ ăn khoảng 2 - 3 lần trong 1 tuần nên chi phí thức ăn khá thấp. Sau hơn 8 tháng nuôi, rắn có cân nặng trung bình từ 800g đến 1,5kg/con.
Hiện anh Lâm có đàn rắn 250 con, trong đó có 50 con bố mẹ và 200 rắn con.
Với giá rắn thịt trên thị trường trung bình từ 200.000 - 250.000/kg hiện nay, có thời điểm gần 1 triệu đồng/kg, sau mỗi vụ (khoảng 12 tháng) anh Lâm có lãi gần 100 triệu đồng.
Ngoài ra, anh còn có thêm thu nhập từ cung cấp trứng rắn, rắn con từ 20 - 30 triệu đồng/vụ.
Đánh giá về mô hình này, ông Nguyễn Trọng Hòa, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hưng Hòa cho biết, nuôi rắn trong hộc tủ bằng gạch là mô hình mới mang lại hiệu quả cao tại địa phương.
Nuôi rắn hổ vện không tốn nhiều diện tích, chỉ tốn vốn đầu tư ban đầu, nguồn thức ăn lại dễ tìm…
Rắn hổ vện còn là vật nuôi ít dịch bệnh, sống khỏe, mau lớn, trong vòng một năm có thể xuất bán, lại có giá trị thương phẩm cao. Đây cũng là mô hình chăn nuôi khá hấp dẫn, địa phương đang có kế hoạch để nhân rộng trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm

Chưa năm nào người nông dân Thái Bình lại chứng kiến nạn sâu cuốn lá nhỏ hoành hành dữ dội như vụ mùa năm nay. Sâu hại trên 100% các giống lúa, trà lúa ở tất cả các huyện, thành phố với mật độ cao gấp 7 - 10 lần so với trung bình nhiều năm.

Cơ cấu giống phần lớn là lúa thơm các loại (bắc thơm số 7, hương thơm số 1, T10) chiếm 50 – 55% diện tích; lúa lai 5 – 10% diện tích; các giống lúa khác (Khang dân, bao thai, nếp N97, IR 352) chiếm 20 – 25% diện tích; còn lại là giống IR 64.

Đó là nguồn H (Huế) của Trường đại học Nông lâm Huế và nguồn GSR (siêu lúa xanh) của Trường đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh với giống đối chứng ML 49 trồng phổ biến tại địa phương.

Những bắp ngô hạt căng tròn, vàng óng trên nương, trái nhà, sân phơi. Tiếng máy tách hạt ngô lách cách bản trên, thôn dưới. Những tiếng gọi nhau í ới, nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt đẫm mồ hôi của người nông dân đang phơi ngô quyện lẫn trong hương thơm ngô mới…

Cụ thể, các thôn Voòng, A banh 2: 20 ngàn cây; thôn Dầm 1: 18 ngàn cây; thôn A riêu, A chua, Dầm 2: 16 ngàn cây; A banh 1: 14 ngàn cây. Ngay sau khi được nhận cây giống, chính quyền địa phương sẽ trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật trồng, cách chăm sóc cũng như giám sát việc thực hiện trồng giống cây này theo đúng quy trình.