Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nuôi Động Vật Hoang Dã Đầu Ra Còn Bấp Bên

Nuôi Động Vật Hoang Dã Đầu Ra Còn Bấp Bên
Ngày đăng: 04/11/2013

Những năm gần đây, trên địa bàn Dak Lak phong trào chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã như heo rừng, nai, nhím, chồn, cá sấu, rắn... đang phát triển khá mạnh và trở thành hướng đi mới cho ngành Chăn nuôi tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu, mô hình này cũng đang gặp không ít khó khăn trở ngại, nhất là về thị trường tiêu thụ.

Giá trị kinh tế cao

Trong khi chăn nuôi bò, heo, gia cầm liên tiếp đối mặt với nhiều dịch bệnh nguy hiểm thì một số người chăn nuôi bắt đầu chuyển sang nuôi động vật hoang dã như: heo rừng, chồn, nhím, nai, rắn… bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Đơn cử như ở xã Cư Êbur, TP. Buôn Ma Thuột, địa bàn đang nắm giữ kỷ lục là vùng nuôi nai tập trung của cả tỉnh với 593 hộ nuôi 2.500 con nai. Theo người dân nơi đây, con nai có mặt ở vùng đất này khá lâu, tuy nhiên, nghề nuôi nai chỉ phát triển mạnh mẽ trong vòng 10 năm trở lại đây và con nai thực sự đang giúp người dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu.

Ông Trần Duy Thoan, thôn 2 cho hay, gia đình nuôi 6 con nai, bình quân một năm cho thu nhập trên 100 triệu đồng từ tiền bán nhung, chưa kể tiền bán con giống. Hay hộ anh Trần Quang Quyền, nuôi 6 con, trong đó có 2 con lấy nhung, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 10kg nhung, với giá bán trên, dưới 7 triệu đồng/kg, đã cho gia đình anh có một nguồn thu gần cả trăm triệu đồng. Theo anh Trần Trọng Khánh, trưởng thôn 2 cho biết, nuôi nai khá dễ, con nai có thể ăn mọi thứ thức ăn từ cỏ đến vỏ mít, cùi sầu riêng, cùi và vỏ ngô; nai lại sống rất khỏe, ít bệnh tật. Vì vậy, ngoài vốn đầu tư con giống ban đầu và xây dựng chuồng trại, thì chi phí thức ăn, công chăm sóc không nhiều, nên lợi nhuận thu được hàng năm từ nai khá cao. Hiện nuôi nai tập trung chủ yếu ở thôn 2, bà con cũng đang dần hướng đến việc liên kết và xây dựng thương hiệu để sản phẩm có đầu ra ổn định.

Mặc dù đã qua thời hoàng kim, nhưng nuôi nhím cũng được nhiều nông dân lựa chọn bởi vốn đầu tư không cao, kỹ thuật chăn nuôi cũng đơn giản. Một trong những hộ thành công trong nuôi nhím phải kể đến hộ chị Vi Thị Thanh Liễu, phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột. Chị kể, chị bắt đầu nghề nuôi nhím bằng một con nhím được cho, sau một thời gian thấy nuôi nhím không mấy khó khăn, chị quyết định triển khai kế hoạch phát triển nhím từ đầu năm 2005. Vừa nuôi, vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm, từ 2009 đến nay đàn nhím của gia đình đã phát triển 400 con, trong đó có 70 nhím mẹ sinh sản. Với giá bán 250.000 đồng/kg nhím thịt và 3 triệu đồng/cặp nhím giống (từ 2,5-3 tháng tuổi), chị ước tính thu khoảng 400 triệu đồng/năm.

Và còn rất nhiều mô hình về nuôi heo rừng, rắn, dúi… đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, việc chăn nuôi tự phát, theo phong trào đã khiến người chăn nuôi chịu nhiều rủi ro về đầu ra sản phẩm cũng như gặp khó khăn trong quản lý dịch bệnh…

Cần có sự liên kết

Giá trị kinh tế cao từ sản phẩm của động vật hoang dã được nuôi nhốt thì ai cũng nhìn thấy, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một hộ chăn nuôi nào bảo đảm được đầu ra ổn định cho sản phẩm của mình và bài toán từ con nhím là một minh chứng. Năm từ 2007-2009 được xem là thời đại hoàng kim của nhím bởi giá nhím giống có lúc được đẩy lên 30 triệu đồng/cặp, nhím thịt từ 600-700 nghìn đồng/kg cũng không có sản phẩm để bán. Thế là nông dân đổ xô đi nuôi nhím; địa phương nào cũng thấy xuất hiện các mô hình nuôi nhím.

Đến năm 2010, giá nhím đột ngột rớt thê thảm, từ 30 triệu đồng xuống còn dưới 3 triệu đồng/cặp nhím giống, nhím thịt còn dưới 200 nghìn đồng/kg nhưng cũng không có đầu ra, rất nhiều nông dân đã đổ nợ vì con nhím. Đến thời điểm này, giá nhím đang ở giá trị thực của sản phẩm, mặc dù không cao nhưng cũng bảo đảm được nguồn thu khá cho nông dân, tuy đầu ra vẫn chưa thật sự ổn định. Trước vấn đề này, bà Tống Thị Điệp, Chủ tịch Hội nông dân thành phố đánh giá: nông dân đang hướng vào chăn nuôi động vật hoang dã là hướng đi mới, có sự năng động trong việc đánh giá nhu cầu thị trường. Thế nhưng để hướng đi này được bền vững, nông dân cần tạo được mối liên kết để tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Có như vậy, việc chăn nuôi của họ mới có điều kiện phát triển về cả quy mô lẫn chất lượng.

Trong khi chưa tạo được sự liên kết giữa các hộ chăn nuôi, thì nhiều nông dân đã năng động, tạo được chỗ đứng ổn định cho sản phẩm của mình trên thị trường, như hộ anh Hoàng Văn Tá, Buôn Ky, phường Thành Nhất, đã chọn heo rừng lai để nuôi, tuy nhu cầu thị trường nhiều nhưng đầu ra sản phẩm vẫn còn khá bấp bênh. Trước thực tế trên, anh mạnh dạn xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến chế biến, kinh doanh sản phẩm heo rừng. Bên cạnh các đầu mối là nhà hàng, quán ăn, nếu người mua trực tiếp đặt hàng và có nhu cầu chế biến thì đều được anh đáp ứng.

Anh cũng xây dựng một quán thực phẩm chuyên về heo rừng vừa để tiêu thụ sản phẩm vừa giới thiệu cho nhiều người biết đến. Bởi vậy, trang trại của anh hiện có 150 con heo, trong đó có 20 heo nái, 1 heo đực thuần, còn lại heo con và heo thương phẩm nhưng cũng không đủ cung cấp cho thị trường. Hay hộ chị Vi Thị Thanh Liêu cũng vậy, trước “sóng gió” của giá nhím bấp bênh làm nhiều hộ điêu đứng thì gia đình chị vẫn duy trì được đàn nhím bằng cách chỉ bán nhím trên một năm tuổi (thịt nhím lúc này mới dai và ngon), vừa bán nhím thịt vừa khuyến mại luôn việc chế biến và nấu sẵn. Theo chị Liễu, nhiều người thích ăn nhím nhưng không biết cách làm và chế biến các món ăn, nắm được tâm lý này vợ chồng chị đã đi học nghề nấu nướng. Ai có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại đặt hàng là vợ chồng chị bắt nhím, làm thịt chế biến sẵn và đem đến tận nhà. Nhờ vậy, việc làm ăn của gia đình chị ngày càng phát triển và được nhiều người biết đến.

Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số ít nông dân thành công trong việc tìm kiếm và giữ vững thị trường tiêu thụ, vẫn còn nhiều nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ cần sự liên kết, chung tay của 4 nhà để phát triển và xa hơn là để những nghề mới của ngành chăn nuôi Dak Lak có thêm điều kiện phát triển không bị chết ỉu.Những năm gần đây, trên địa bàn Dak Lak phong trào chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã như heo rừng, nai, nhím, chồn, cá sấu, rắn... đang phát triển khá mạnh và trở thành hướng đi mới cho ngành Chăn nuôi tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu, mô hình này cũng đang gặp không ít khó khăn trở ngại, nhất là về thị trường tiêu thụ.

Giá trị kinh tế cao

Trong khi chăn nuôi bò, heo, gia cầm liên tiếp đối mặt với nhiều dịch bệnh nguy hiểm thì một số người chăn nuôi bắt đầu chuyển sang nuôi động vật hoang dã như: heo rừng, chồn, nhím, nai, rắn… bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Đơn cử như ở xã Cư Êbur, TP. Buôn Ma Thuột, địa bàn đang nắm giữ kỷ lục là vùng nuôi nai tập trung của cả tỉnh với 593 hộ nuôi 2.500 con nai. Theo người dân nơi đây, con nai có mặt ở vùng đất này khá lâu, tuy nhiên, nghề nuôi nai chỉ phát triển mạnh mẽ trong vòng 10 năm trở lại đây và con nai thực sự đang giúp người dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Ông Trần Duy Thoan, thôn 2 cho hay, gia đình nuôi 6 con nai, bình quân một năm cho thu nhập trên 100 triệu đồng từ tiền bán nhung, chưa kể tiền bán con giống.

Hay hộ anh Trần Quang Quyền, nuôi 6 con, trong đó có 2 con lấy nhung, mỗi năm cho thu hoạch khoảng 10kg nhung, với giá bán trên, dưới 7 triệu đồng/kg, đã cho gia đình anh có một nguồn thu gần cả trăm triệu đồng. Theo anh Trần Trọng Khánh, trưởng thôn 2 cho biết, nuôi nai khá dễ, con nai có thể ăn mọi thứ thức ăn từ cỏ đến vỏ mít, cùi sầu riêng, cùi và vỏ ngô; nai lại sống rất khỏe, ít bệnh tật. Vì vậy, ngoài vốn đầu tư con giống ban đầu và xây dựng chuồng trại, thì chi phí thức ăn, công chăm sóc không nhiều, nên lợi nhuận thu được hàng năm từ nai khá cao. Hiện nuôi nai tập trung chủ yếu ở thôn 2, bà con cũng đang dần hướng đến việc liên kết và xây dựng thương hiệu để sản phẩm có đầu ra ổn định.

Mặc dù đã qua thời hoàng kim, nhưng nuôi nhím cũng được nhiều nông dân lựa chọn bởi vốn đầu tư không cao, kỹ thuật chăn nuôi cũng đơn giản. Một trong những hộ thành công trong nuôi nhím phải kể đến hộ chị Vi Thị Thanh Liễu, phường Tự An, TP. Buôn Ma Thuột. Chị kể, chị bắt đầu nghề nuôi nhím bằng một con nhím được cho, sau một thời gian thấy nuôi nhím không mấy khó khăn, chị quyết định triển khai kế hoạch phát triển nhím từ đầu năm 2005. Vừa nuôi, vừa học hỏi vừa rút kinh nghiệm, từ 2009 đến nay đàn nhím của gia đình đã phát triển 400 con, trong đó có 70 nhím mẹ sinh sản. Với giá bán 250.000 đồng/kg nhím thịt và 3 triệu đồng/cặp nhím giống (từ 2,5-3 tháng tuổi), chị ước tính thu khoảng 400 triệu đồng/năm.

Và còn rất nhiều mô hình về nuôi heo rừng, rắn, dúi… đem lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, việc chăn nuôi tự phát, theo phong trào đã khiến người chăn nuôi chịu nhiều rủi ro về đầu ra sản phẩm cũng như gặp khó khăn trong quản lý dịch bệnh…

Cần có sự liên kết

Giá trị kinh tế cao từ sản phẩm của động vật hoang dã được nuôi nhốt thì ai cũng nhìn thấy, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một hộ chăn nuôi nào bảo đảm được đầu ra ổn định cho sản phẩm của mình và bài toán từ con nhím là một minh chứng. Năm từ 2007-2009 được xem là thời đại hoàng kim của nhím bởi giá nhím giống có lúc được đẩy lên 30 triệu đồng/cặp, nhím thịt từ 600-700 nghìn đồng/kg cũng không có sản phẩm để bán. Thế là nông dân đổ xô đi nuôi nhím; địa phương nào cũng thấy xuất hiện các mô hình nuôi nhím.

Đến năm 2010, giá nhím đột ngột rớt thê thảm, từ 30 triệu đồng xuống còn dưới 3 triệu đồng/cặp nhím giống, nhím thịt còn dưới 200 nghìn đồng/kg nhưng cũng không có đầu ra, rất nhiều nông dân đã đổ nợ vì con nhím. Đến thời điểm này, giá nhím đang ở giá trị thực của sản phẩm, mặc dù không cao nhưng cũng bảo đảm được nguồn thu khá cho nông dân, tuy đầu ra vẫn chưa thật sự ổn định. Trước vấn đề này, bà Tống Thị Điệp, Chủ tịch Hội nông dân thành phố đánh giá: nông dân đang hướng vào chăn nuôi động vật hoang dã là hướng đi mới, có sự năng động trong việc đánh giá nhu cầu thị trường. Thế nhưng để hướng đi này được bền vững, nông dân cần tạo được mối liên kết để tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tiến tới xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Có như vậy, việc chăn nuôi của họ mới có điều kiện phát triển về cả quy mô lẫn chất lượng.

Trong khi chưa tạo được sự liên kết giữa các hộ chăn nuôi, thì nhiều nông dân đã năng động, tạo được chỗ đứng ổn định cho sản phẩm của mình trên thị trường, như hộ anh Hoàng Văn Tá, Buôn Ky, phường Thành Nhất, đã chọn heo rừng lai để nuôi, tuy nhu cầu thị trường nhiều nhưng đầu ra sản phẩm vẫn còn khá bấp bênh. Trước thực tế trên, anh mạnh dạn xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến chế biến, kinh doanh sản phẩm heo rừng. Bên cạnh các đầu mối là nhà hàng, quán ăn, nếu người mua trực tiếp đặt hàng và có nhu cầu chế biến thì đều được anh đáp ứng.

Anh cũng xây dựng một quán thực phẩm chuyên về heo rừng vừa để tiêu thụ sản phẩm vừa giới thiệu cho nhiều người biết đến. Bởi vậy, trang trại của anh hiện có 150 con heo, trong đó có 20 heo nái, 1 heo đực thuần, còn lại heo con và heo thương phẩm nhưng cũng không đủ cung cấp cho thị trường. Hay hộ chị Vi Thị Thanh Liêu cũng vậy, trước “sóng gió” của giá nhím bấp bênh làm nhiều hộ điêu đứng thì gia đình chị vẫn duy trì được đàn nhím bằng cách chỉ bán nhím trên một năm tuổi (thịt nhím lúc này mới dai và ngon), vừa bán nhím thịt vừa khuyến mại luôn việc chế biến và nấu sẵn. Theo chị Liễu, nhiều người thích ăn nhím nhưng không biết cách làm và chế biến các món ăn, nắm được tâm lý này vợ chồng chị đã đi học nghề nấu nướng. Ai có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại đặt hàng là vợ chồng chị bắt nhím, làm thịt chế biến sẵn và đem đến tận nhà. Nhờ vậy, việc làm ăn của gia đình chị ngày càng phát triển và được nhiều người biết đến.

Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số ít nông dân thành công trong việc tìm kiếm và giữ vững thị trường tiêu thụ, vẫn còn nhiều nông dân chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ cần sự liên kết, chung tay của 4 nhà để phát triển và xa hơn là để những nghề mới của ngành chăn nuôi Dak Lak có thêm điều kiện phát triển không bị chết ỉu.


Có thể bạn quan tâm

Gà Sống, Người “Chết”! Gà Sống, Người “Chết”!

Sau 1 tháng gà bị cầm chuồng, trong giai đoạn tăng trưởng này, mỗi ngày đàn gà 8.200 con “ngốn” mất 10 triệu đồng tiền thức ăn. Vị chi qua 1 tháng cầm chuồng, người nuôi đã mất thêm 300 triệu đồng tiền thức ăn.

12/03/2014
Tăng Cường Công Tác Phòng Chống Dịch Bệnh Trên Tôm Nuôi Tăng Cường Công Tác Phòng Chống Dịch Bệnh Trên Tôm Nuôi

Thời gian qua, mặc dù ngành chuyên môn đã tăng cường nhiều biện pháp phòng, chống nhưng tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi vẫn tiếp tục xảy ra trên địa bàn huyện Năm Căn (Cà Mau). Tác nhân gây hại chủ yếu là virus đốm trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp.

13/03/2014
Một Số Giải Pháp Ngăn Chặn Dịch Bệnh Trên Tôm Nuôi Một Số Giải Pháp Ngăn Chặn Dịch Bệnh Trên Tôm Nuôi

Theo Sở NN&PTNT, đến nay, tổng diện tích thả nuôi tôm biển thâm canh, bán thâm canh trong tỉnh Bến Tre là 882ha, diện tích bị thiệt hại là 143ha. Tôm chết giai đoạn từ 30-35 ngày tuổi, do bệnh hoại tử gan tụy cấp, bệnh đốm trắng, tập trung tại các xã: Định Trung, Đại Hòa Lộc và các địa phương nuôi ngoài vùng qui hoạch, như: Thới Lai, Phú Vang, Lộc Thuận (Bình Đại).

13/03/2014
Xử Lý Những Hộ Nuôi Cá Từ Nguồn Nội Tạng Gia Súc, Gia Cầm Xử Lý Những Hộ Nuôi Cá Từ Nguồn Nội Tạng Gia Súc, Gia Cầm

Thời gian qua dù cơ quan chức năng thành phố đã tăng cường kiểm tra xử lý, nhưng nhiều hộ chăn nuôi cá bè trên sông Cái (thuộc nhánh sông Đồng Nai) vẫn lén lút nhập nguồn thức ăn cho cá là nội tạng gia súc, gia cầm, trong đó có hàng trăm ký lòng gà, lòng vịt.

13/03/2014
Nuôi Trồng Thủy Sản Ở Thị Xã Sông Cầu Phát Huy Vai Trò Tổ Quản Lý Cộng Đồng Nuôi Trồng Thủy Sản Ở Thị Xã Sông Cầu Phát Huy Vai Trò Tổ Quản Lý Cộng Đồng

Năm 2014, TX Sông Cầu (Phú Yên) có chủ trương đa dạng hóa các vật nuôi thủy sản thân thiện với môi trường, phát triển nuôi trồng thủy sản trên cơ sở quản lý chặt chẽ quy hoạch các vùng nuôi. Tổ quản lý cộng đồng trong nuôi trồng thủy sản tại các vùng nuôi ở TX Sông Cầu là một nhân tố quyết định đến sự thành công của vụ nuôi, đồng thời giúp ngư dân nuôi thủy sản bền vững.

13/03/2014