Nỗi niềm mùa vải chín

Đến vùng quê Đồng Hỷ vào giữa tháng 6, chúng tôi dễ dàng bắt gặp màu đỏ tươi rói của quả vải nổi bật trên nền xanh ngắt của những vòm cây. Giống vải của Đồng Hỷ chủ yếu là giống có nguồn gốc từ huyện Thanh Hà, Hải Dương và cây vải thiều ở Lục Ngạn, Bắc Giang được trồng nhiều tại các vùng như: Khe Mo, Văn Hán, Hóa Trung, Hợp Tiến, Tân Lợi, Nam Hòa... Quả vải chín có màu đỏ, mùi thơm nhẹ, cùi dầy, tuy căng mọng nhưng khi bóc vỏ không dính nước, vị ngon ngọt thanh mát... Nhưng vị thơm ngon và sắc hương ấy vẫn chưa giúp người nông dân tìm được hướng đi để thoát cảnh giá bán rẻ, đầu ra bấp bênh.
Trong khu vườn của gia đình ông Diệp Văn Bảy, xóm Quang Trung, xã Nam Hòa, cây vải nào quả cũng sai lúc lỉu, như kéo cả cành cây sà xuống đất. Ông Bảy chia sẻ: Năm nay cây vải được mùa dù thời tiết có lúc thất thường. Nhà tôi có gần 100 gốc vải, chia thành 2 vườn, trong đó 1 vườn đã thu hoạch xong, đây là vườn vải thứ 2 cũng đang chuẩn bị thu hoạch tiếp. Hiện, giá trung bình vải thiều bán tại vườn chỉ được 4 nghìn đồng/kg. Vì giá thấp quá, nên gia đình tôi đành lặn lội tự mình chở vải ra chợ Túc Duyên bán thì được khoảng 8 đến 10 nghìn đồng/kg.
Nhưng mang đi tiêu thụ cũng rất khó khăn, mỗi ngày chúng tôi đều dậy từ 2 giờ sáng, mang vải chín đã bó gọn thành từng túm đi, chở vải quanh chợ, chờ tìm được người mua, có hôm đến trưa vẫn còn nhiều quá, đành bán tống bán tháo cho các tiểu thương. Ông chia sẻ thêm, vụ vải thường ngắn ngày, lúc vải bắt đầu chín rộ phải thu hoạch nhanh (trong vòng 15 ngày), nếu hái không kịp quả vải sẽ bị cay, mầu bị thâm và rất khó bán. Vì vậy, ở đợt thu hoạch lần thứ nhất, gia đình ông đã phải thuê thêm nhân công, sau khi trừ đi chi phí thì chẳng còn được bao nhiêu.
Cùng gặp khó khăn về đầu ra như gia đình ông Diệp Văn Bảy, các hộ trồng vải trên địa bàn huyện Đồng Hỷ năm nay và nhiều năm trước đều ở trong hoàn cảnh được mùa mà vẫn không vui vì giá vải quá thấp và khó bán. Để được giá cao hơn 1 chút, người dân chỉ có cách tập trung hết nhân lực thu hái và chở ra chợ đầu mối Túc Duyên để bán. Nếu ở xa, không mang được tới các chợ thì đành chịu thiệt, tiếc rẻ nhìn vải chín rụng đỏ gốc. Gia đình ông Liễu Văn Sinh, ở xóm Na Tiếm, xã Tân Lợi là một ví dụ.
Ông Sinh chia sẻ: Gia đình tôi có 3ha trồng vải, mỗi năm thu hoạch khoảng gần 4 tấn quả. Nhà ở xa chợ Túc Duyên, neo người nên không thu hoạch và đi bán kịp, có năm đành để rụng đầy vườn thu nhập từ trồng vải cũng chẳng được là bao. Vì vậy, dù đã cất công đi nhiều nơi học tập về kỹ thuật trồng vải thiều và gia đình có nhiều cây vải đang trong tầm tuổi ra quả tốt nhưng gia đình tôi đang tính toán để thay thế bằng cây keo may ra hiệu quả kinh tế cao hơn.
Theo thông tin từ Phòng Nông nghiệp và PTNT Đồng Hỷ, năm 2015, với diện tích trên 750ha, tổng sản lượng vải thiều của huyện ước đạt trên 3,3 nghìn tấn quả tươi, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Được mùa, nhưng qua câu chuyện với bà con, chúng tôi thường gặp một nỗi trăn trở đó là không biết có nên tiếp tục trồng vải nữa hay không? Bởi vì, phải đổ biết bao mồ hôi, công sức, người nông dân mới trồng được những vườn vải tươi tốt, trĩu nặng quả. Nhưng khi vải đến thời kỳ thu hoạch thì không có thị trường tiêu thụ, giá bán xuống quá thấp, có lúc chỉ còn 3 nghìn đồng/kg.
Trăn trở như thế, nhưng vì tiếc những cây vải tươi tốt và những kỹ thuật trồng vải đã tích lũy được bao năm nay nên phần lớn người dân ở đây vẫn chọn cách tiếp tục gắn bó với cây vải. Họ hy vọng năm sau giá vải sẽ tăng hoặc đầu ra ổn định hơn. Họ đều trông chờ chính quyền các cấp chủ động triển khai nhiều biện pháp tiêu thụ vải thiều ở các thị trường, đồng thời giúp bà con nông dân về công nghệ bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị nông sản từ đó họ tiếp tục gắn bó với cây vải quê mình
Có thể bạn quan tâm

Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, họ luôn có khát khao cháy bỏng. Một trong những mong ước đó là muốn làm giàu ngay trên chính mảnh đất quê hương và dạy dỗ con cái trưởng thành. Chúng tôi đã gặp những con người như thế!

Như 1 chiến binh không say sưa với chiến thắng, Cty CP Đường Quảng Ngãi tỉnh táo nhận ra 1 điều: Muốn phát triển bền vững, không thể “muôn năm” 1 sản phẩm, mà phải đa dạng hóa. Như xây nhà phải có cửa thoát hiểm, để nhỡ xảy ra sự cố, không thể tháo thân bằng cửa chính thì cũng còn cửa phụ.

Bên cạnh đó, nhà máy còn luôn đảm bảo chất lượng sản phẩm urê cung cấp ra thị trường. Mới đây, sản phẩm phân bón Đạm Phú Mỹ đã được xuất sang các thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng và thân thiện với môi trường như New Zealand, Jordan, châu Âu…

PGS-TS Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu - phát triển ĐBSCL, đưa ra một thực tế rằng nếu tính bình quân diện tích trồng lúa trên đầu người tương ứng với thu nhập từ cây lúa như hiện nay thì nông dân trồng lúa ở gần với ngưỡng nghèo. Trong hệ thống phân phối, chỉ có trên dưới 7% người trồng lúa bán được gạo trực tiếp cho doanh nghiệp, còn lại hạt gạo phải “đội” từ 7 - 8 lớp “cò”. Hơn nữa, nông dân sử dụng “thừa” phân, thuốc làm cho giá thành sản xuất tăng.

Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% con giống với mật độ 5 con/m2 (cá rô đồng là chính, ghép thêm cá sặt rằn, cá chép và cá mè vinh), một phần thức ăn và được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông hỗ trợ kỹ thuật trong suốt vụ nuôi và tổng kết, đánh giá hiệu quả mô hình.