Nỗi Lo Từ Một Dự Án Rau Sạch

Dự án “Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học” (còn gọi là QSEAP), tổng vốn đầu tư hơn 90 tỷ đồng, trong đó khoảng 66 tỷ đồng là vốn vay Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), được Sở NN&PTNT Đà Nẵng triển khai đầu năm 2010.
Đây là dự án có tổng vốn đầu tư lớn nhất kể từ trước đến nay trong lĩnh vực nông nghiệp ở Đà Nẵng. Theo kế hoạch, dự án sẽ kết thúc vào năm 2015, khi 5 vùng rau an toàn (Hòa Vang: 4 vùng 57,7ha, Cẩm Lệ 1 vùng 7ha) phát huy tối đa hạ tầng đã xây dựng và tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao, sản xuất ra nhiều rau chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Với những gì đã và đang diễn ra tại các vùng rau cho thấy việc sản xuất rau an toàn đang hết sức nan giải. Và đây đang là nỗi lo nhất về tính hiệu quả của dự án.
Cơ sở hạ tầng vùng rau hoàn thiện
Để dự án triển khai đúng kế hoạch và đạt mục tiêu đề ra, Sở NN&PTNT thành lập Ban quản lý gồm 4 cán bộ, do một phó giám đốc sở làm trưởng ban.
Tham gia dự án là Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, Trung tâm Khuyến ngư - nông - lâm, Phòng NN&PTNT huyện Hòa Vang và chính quyền cũng như HTX của 5 địa phương, gồm các xã: Hòa Tiến, Hòa Phong, Hòa Nhơn, Hòa Khương (huyện Hòa Vang) và phường Hòa Thọ Đông (quận Cẩm Lệ).
Đến nay, sau hơn 4 năm triển khai, gần như toàn bộ hạ tầng các vùng rau, bao gồm các hạng mục: đường giao thông nội đồng, hệ thống tưới, nhà lưới, nhà sơ chế sản phẩm, hệ thống cấp điện lưới… đã hoàn thành, bàn giao cho địa phương quản lý, khai thác.
Tổng vốn đầu tư cho hạng mục này khoảng hơn 50 tỷ đồng. Cùng theo đó, 71 lớp tập huấn kỹ thuật canh tác các loại rau đã triển khai với 1.898 lượt nông dân tham dự. Kinh phí cho khâu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật này đến cuối năm 2013 đã là 1,05 tỷ đồng.
Cơ sở hạ tầng hoàn thiện, tập huấn kỹ thuật chu đáo, nhưng liệu các vùng rau này có làm ra nhiều rau an toàn như mục tiêu đề ra? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã về 5 vùng rau của dự án và nhận thấy, việc sản xuất rau chưa có gì chuyển biến so các năm trước.
Nói đúng hơn, sản phẩm từ các vùng rau này còn quá ít ỏi, nếu như không muốn nói chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu tại chỗ. Trong lúc đó, với khí hậu và thổ nhưỡng ở Đà Nẵng, các loại rau xanh không chỉ dễ trồng mà luôn cho năng suất cao.
Sản xuất chưa xứng với đầu tư
Trong số 5 vùng rau của dự án, tại thời điểm này, vùng rau La Hường (7ha), ở phường Hòa Thọ Đông (quận Cẩm Lệ), vùng rau Hồ Bún (6ha) ở xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang đang được sản xuất khá bài bản, lượng rau đưa ra thị trường tuy không lớn, song ngày nào cũng có bán.
3 vùng rau còn lại là vùng rau 9ha ở xã Hòa Nhơn, 13ha ở xã Hòa Khương và 15,7ha ở xã Hòa Tiến, kiếm mớ rau ngon không dễ.
Tại vùng rau ở thôn Thạch Nham Tây, xã Hòa Nhơn, các bể nước hoàn thành đã lâu, song chưa một lần sử dụng, bởi phần lớn diện tích quy hoạch trồng rau tại đây đang trồng mè. Khu vực trồng rau gần 1ha, nhà lưới đã phủ kín, nhưng các loại rau khá èo uột, hoặc mới xuống giống. Một số luống rau muống và dền đỏ do chăm bón không đến nơi đến chốn nên còi cọc.
Ông Lê Năm, cán bộ thuộc Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, đứng chân chỉ đạo sản xuất tại vùng rau này, cho biết: Mới là bước khởi đầu. Còn gian nan lắm mới đạt mục tiêu đề ra. Hiện tại hướng dẫn nông dân sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGap.
Còn ông Nguyễn Thế Huỳnh, nông dân sản xuất 2 sào rau, cho hay trồng rau thu nhập cao hơn đậu mè. Từ năm ngoái đến nay sản xuất được 3 lứa. Tuy vậy, để trồng cho bài bản phải còn lâu, bởi bà con ít tâm huyết với cây rau vì sản phẩm làm ra tiêu thụ không dễ.
Vùng rau Cẩm Nê, xã Hòa Tiến nhiều tuần nay không một bóng người. Nói đúng hơn, đây chưa phải là vùng rau, bởi từ trước đến nay chưa hề có một luống rau.
Có chăng, tại đó một số thửa trồng mè đã thu hoạch. Ngôi nhà sơ chế sản phẩm chơ vơ giữa đồng vắng, không ai quản lý, một số hạng mục đã xuống cấp. Vùng rau ở Phú Sơn 2, xã Hòa Khương có khá hơn chút ít, tại khu vực lắp đặt nhà lưới đã triển khai sản xuất, nhưng xem ra để có nhiều rau an toàn tại đây còn xa vời.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, tổ chức tập huấn kỹ thuật cho người trồng rau không khó. Cái khó nhất là biến các vùng rau có hạ tầng cơ sở hoàn thiện này làm ra nhiều sản phẩm.
Với những gì đã và đang diễn ra tại các vùng rau cho thấy, việc sản xuất rau an toàn đang hết sức nan giải. Và đây đang là nỗi lo lớn nhất về tính hiệu quả của dự án. Ban Quản lý dự án QSEAP, Phòng NN&PTNT huyện Hòa Vang, chính quyền các địa phương có vùng rau đều nhận thấy thực trạng này.
Ông Lê Đình Ca, Phó phòng NN&PTNT huyện Hòa Vang, cho rằng xây dựng đội ngũ trồng rau chuyên nghiệp, gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của các vùng rau. Cùng theo đó, huyện sẽ thu hút và tạo điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư sản xuất tại các vùng rau của dự án.
Làm gì để các vùng đã xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện sản xuất ra nhiều rau chất lượng cao? Đây là bài toán đặt ra cho ngành nông nghiệp thành phố, cần có lời giải kịp thời. Nếu chậm phát huy hiệu quả cơ sở hạ tầng đã xây dựng, chắc chắn những hạng mục đã có sẽ xuống cấp và sẽ lãng phí như dự án rau an toàn ngành đã triển khai cách đây hơn 10 năm.
Có thể bạn quan tâm

Sáng mùng 2 Tết, sau bữa cơm quần tụ với con cháu, gia đình, bác Lê Thị Tình (54 tuổi), ở làng Bi, xã Ia Dom đã tranh thủ lặn lội lên vườn cách nhà hơn 2 km để nhặt hạt điều. “Vườn xa nhà nên sợ mất trộm, Tết nhất vẫn tranh thủ đi nhặt hạt từ các quả chín rụng xuống đất. Thấy của phơi ngoài vườn ngồi không yên được, bởi tiền bạc lo lắng mọi việc, kể cả con cái học hành đều trông cả vào đó”- bác Tình, tâm sự.

Chiều mùng 6 Tết, tại khu vực bến thuyền nhỏ ở tổ dân phố Thủy Đầm, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa), cảnh mua bán ruốc diễn ra khá tấp nập. Dưới bến, nhiều chiếc thuyền thúng liên tục chuyển ruốc từ những con tàu đậu ngoài xa vào bờ. Trên bến, hàng chục người đang tất bật bốc xếp những sọt ruốc tươi rói cân bán cho các thương lái.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở sản xuất giống thủy sản chuẩn bị cải tạo ao, bể ương, lấy nước dự trữ ương nuôi giống, xác định nhu cầu con giống của các địa phương và các vùng lân cận. Xây dựng kế hoạch sản xuất ngay từ đầu năm, để kịp thời cung ứng giống phục vụ người nuôi bảo đảm kịp thời vụ.

Ông Nguyễn Duy Lâm, Trưởng phòng thủy sản (Sở NN&PTNT) cho biết, tỉnh Bình Định đã quyết định loại 4 tàu cá của ông La Tình, ở xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn ra khỏi mô hình khai thác, thu mua xuất khẩu cá ngừ đại dương (CNĐD) theo chuỗi, đồng thời thu hồi 4 bộ thiết bị câu CNĐD theo kiểu Nhật Bản đã lắp đặt trên 4 tàu cá của ngư dân này.

Năm 2014, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng VietGAP do Trung tâm Khuyến nông quốc gia chuyển giao cho nông dân xã Cam Hải Đông (huyện Cam Lâm, Khánh Hòa) bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, để nhân rộng cần có sự quan tâm nhiều hơn của ngành chức năng.