Ninh Thuận Nuôi Tôm Công Nghiệp Không Sử Dụng Kháng Sinh, Hóa Chất Theo VietGAP

Năm 2014, diện tích thả tôm giống toàn tỉnh Ninh Thuận đạt 1.000 ha tôm thẻ chân trắng và 46 ha tôm sú, sản lượng thu hoạch khá 8.940 tấn, đạt 112 % kế hoạch và 113 % so năm 2013.
Năm vừa qua, tỷ lệ diện tích tôm nuôi bị bệnh giảm ở mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây: diện tích tôm bệnh là 105 ha chiếm 10% diện tích thả nuôi, chủ yếu ở giai đoạn 10 - 30 ngày tuổi với các dấu hiệu của bệnh do môi trường, đốm trắng, gan tụy.
Để hạn chế dịch bệnh, tăng hiệu quả kinh tế, năm 2014 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Ninh Thuận đã xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng VietGAP tại vùng nuôi trên cát thôn Hòa Thạnh, xã An Hải quy mô 2 ha với 5 hộ tham gia. Sau thời gian chuẩn bị kỹ về chỉnh trang ao, đìa, giăng lưới ngăn chim, nhà kho, hệ thống nước cấp và thải, xây dựng WC, cải tạo ao, chọn giống… tập trung thả tôm giống vào đầu tháng 8/2014.
Kết quả thực hiện mô hình, sau 71 ngày nuôi thu hoạch được 30 tấn (tôm cỡ 52 - 54 con/kg), giá bán 162 - 186.000 đồng/kg (do giá trên thị trường tăng cao) doanh thu 5 tỷ đồng, lợi nhuận 2,4 tỷ đồng.
Tôm nuôi VietGAP nhanh lớn (do mật độ vừa phải), màu sắc đẹp, tỷ lệ sống cao, không bị bệnh, năng suất đạt 15 tấn/ha/vụ. Ngoài ra, tôm nuôi VietGAP, có giá bán cao hơn tôm nuôi thường 12.000 - 15.000 đồng/kg vì hạn chế hoặc không dùng kháng sinh, do vậy đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và xuất khẩu dễ dàng.
Theo kinh nghiệm của các hộ nuôi, để thực hiện nuôi tôm theo quy trình VietGAP, không sử dụng kháng sinh, hóa chất trong suốt quá trình nuôi tôm, các bước thực hiện gồm có:
Bước 1: Chuẩn bị nước vào ao lắng (ao lót bạt):
Sau khi đã chuẩn bị ao chu đáo (tháo cạn, rửa sạch bạt, phơi khô, khử trùng), chăng lưới ngăn chim và lưới ngăn cua, còng, cáy… người nuôi lấy nước vào qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ ấu trùng, tôm, cua, còng cáy, cá tạp, côn trùng…(chờ con nước sạch mới lấy), dùng CLO để khử trùng nước, liều lượng 2kg/1000m³ nước, quạt nước liên tục trong 1 ngày rồi dùng tiếp BKC, liều lượng 2lít/1000m³ nước, 2 ngày sau dùng vôi (CaC03) liều lượng 70kg/1000m³, hòa tan té xuống ao để ổn định pH, dùng EDTA liều lượng 5kg/1000m³ nước để khử kim loại nặng và ổn định độ kiềm.
Bước 2: Gây màu nước tại ao nuôi:
Khi đã đưa nước vào ao nuôi, tiến hành gây màu nước theo công thức 4:2:1 (cứ 4 kg đường mật + 2 kg thóc xay + 1 lít E.M), ủ với 40 lít nước, thời gian 4 - 5 ngày, sau khi đã lên men, té xuống ao để gây màu nước với liều lượng 400 lít/1000m³ nước, té liên tục trong 3 ngày là màu nước lên đẹp, đảm bảo cho tôm phát triển tốt.
Bước 3: Chọn và thả tôm giống
+ Chọn tôm giống: Thả tôm giống P15, tôm có màu sắc tươi sáng, đều cỡ, khỏe mạnh, đã qua kiểm dịch của cơ quan chuyên môn, tôm âm tính về các bệnh: MBV, đốm trắng, đầu vàng, IMNV, gạn tụy…
+ Thả đúng mùa vụ, chọn thời điểm mát để thả (chiều tối), mật độ 100 con/m².
Bước 4: Chăm sóc, quản lý
+ Cho ăn: Chọn loại thức ăn có độ đạm từ 32 - 38%, có nhãn mác rõ ràng, có uy tín, cho ăn 4 đúng (đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng địa điểm), kích cỡ thức ăn theo độ tuổi của tôm. Ngày cho ăn 4 lần (sáng, gần trưa, đầu giờ chiều, chiều tối), đặc biệt phải chú ý dùng quạt nước 24/24 giờ để tôm đủ oxy.
Sau khi nuôi được 3 ngày bắt đầu dùng chế phẩm sinh học E.M, liều lượng 1 lít/1000m³ nước, định kỳ 5 - 7 ngày bón một lần (tùy theo màu nước để quyết định bón E.M, nếu màu nước đậm đặc không bón nữa). Nếu nước xuất hiện nhiều tảo lam thì tiến hành thay nước (1/3 nước trong ao), chú ý phải thay vào ban đêm, sáng hôm sau bón tiếp chế phẩm sinh học E.M. Khi nhiệt độ cao hơn 34 độ C và thấp hơn 24 độ C, giảm 20% thức ăn.
Trong ao nuôi tôm, chế phẩm sinh học (CPSH) rất hữu ích vì CPSH phân hủy hết các chất hữu cơ, thức ăn thừa, khí độc…làm sạch đáy ao, ổn định màu nước, ức chế các vi sinh vật có hại, thúc đẩy các vi sinh vật có lợi phát triển, tăng sức khỏe cho tôm, do đó tôm lớn nhanh, ít bệnh, hiệu quả cao hơn hình thức nuôi khác rất nhiều.
+ Chăm sóc: trong quá trình nuôi, người nuôi cần luôn quan sát màu nước và sức khỏe tôm để xử lý hàng ngày (quyết định lượng thức ăn, chế phẩm sinh học, bổ sung nước…). Thường xuyên bổ sung khoáng vào môi trường nước và thức ăn cho tôm, ngoài ra còn phải cho tôm ăn thêm vitamin C, bổ gan, cho ăn liên tục từ khi tôm được 20 ngày tuổi cho đến lúc thu hoạch. Chi phí sử dụng chế phẩm sinh học và các chất bổ sung khoảng 10.000 đồng/kg tôm thương phẩm.
+ Quản lý môi trường nước: Hàng ngày người nuôi cần tiến hành đo các yếu tố như nhiệt độ, pH, DO, NH3, độ mặn, độ kiềm để xử lý kịp thời…
Trong điều kiện giá tôm chưa ổn định, sản phẩm xuất khẩu ngày càng chịu sự kiểm tra gắt gao của nước nhập khẩu có quy định chặt chẽ về an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là dư lượng các chất kháng sinh (yếu tố hóa học) và tồn tại của vi khuẩn độc hại (yếu tố sinh học); quy trình sản xuất sạch của mô hình nuôi tôm công nghiệp theo hướng VietGAP sẽ tạo bước đột phá, giúp nghề nuôi tôm thương phẩm tỉnh Ninh Thuận phát triển bền vững.
Có thể bạn quan tâm

Nuôi cá lóc mang lại thu nhập tương đối khá nên nhiều hộ dân ở các đội 7, 8 và 9 thôn Hòa Tân, xã Mỹ Đức (huyện Phù Mỹ - Bình Định) đã đổ xô đào ao, trải bạt nuôi cá lóc trong vườn nhà. Việc nuôi cá không theo quy hoạch đã làm môi trường ở đây bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết những mô hình ứng dụng Thực hành nông nghiệp tốt (GAP) thành công đều có sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ, có vai trò của doanh nghiệp hoặc nhà nước hỗ trợ chứng nhận và tiêu thụ sản phẩm.

Đến thời điểm này, những hộ nông dân trồng củ sắn (củ đậu) ở 4 ấp thuộc xã An Thạnh Đông (huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng) đạt lợi nhuận gần 50 triệu đồng/công sau khi trừ chi phí. Đây được xem là “mùa vàng” với người trồng củ sắn ở xã An Thạnh Đông khi giá bán đạt... “kỷ lục” 7.000 đồng/kg!

Người nuôi tôm hùm ở TX Sông Cầu (Phú Yên) cho biết, hiện giá tôm hùm thương phẩm xuống thấp, chỉ còn 1,2 triệu đồng/kg, giảm 200.000 đồng/kg so với đầu tháng 3 và giảm 600.000 đồng/kg so với thời điểm đầu năm 2015. Giá tôm xuống thấp khiến người nuôi hòa vốn hoặc lãi ít sau gần 2 năm nuôi.

Hướng tới việc khai thác, nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả cao và bền vững, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã đề ra nhiệm vụ tổ chức lại sản xuất trên biển, đồng thời thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020.