Nhà Máy Chế Biến Tôm Phải Có Vùng Nguyên Liệu
Các doanh nghiệp (DN) chế biến tôm, nếu muốn tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thủy sản, phải có vùng nguyên liệu tối thiểu 10% công suất và phải ký hợp đồng mua tôm nguyên liệu có sự chứng nhận của cơ quan quản lý nhà nước.
Hiện Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN –PTNT) đang lấy ý kiến cho dự thảo đề án Quản lý hoạt động sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo lý giải của Tổng cục Thủy sản, đề án là cần thiết và cấp bách, nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế cũng như bố trí sản xuất hợp lý, giảm các rủi ro về môi trường, dịch bệnh, thị trường và hạn chế xung đột với hoạt động của các ngành kinh tế khác.
Theo Tổng cục Thủy sản, tính đến hết năm 2013, ĐBSCL có gần 596.000 héc ta nuôi tôm, chiếm gần 91% diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước, diện tích tôm sú là hơn 580.000 héc ta, còn lại là tôm thẻ chân trắng. Sản lượng nuôi tôm nước lợ của vùng ĐBSCL đạt 431.570 tấn, trong đó tỉnh có sản lượng lớn nhất là Cà Mau với 133.500 tấn, Bạc Liêu là 85.630 tấn, Sóc Trăng là 68.500 tấn, Bến Tre là 49.156 tấn…
Tuy nhiên, sản lượng tôm này chỉ đáp ứng được 60-70% công suất thiết kế của các nhà máy chế biến tôm xuất khẩu đóng trên địa bàn 13 tỉnh ĐBSCL. Ngoài ra nguồn tôm nguyên liệu tăng giảm phụ thuộc mùa vụ, dịch bệnh. Thiếu nguồn tôm nguyên liệu cộng với quy hoạch mạng lưới nhà máy chế biến chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu nên các nhà máy chế biến tôm xuất khẩu luôn phải hoạt động dưới công suất thiết kế. Gần đây, để bù vào sự thiếu hụt tôm nguyên liệu, doanh nghiệp phải nhập khẩu thủy sản từ các nước .
Thực tế là lâu nay, chỉ có một số ít doanh nghiệp thủy sản xây dựng vùng nguyên liệu, còn việc ký hợp đồng mua tôm với các hộ dân thường không nhiều, chủ yếu là các đại lý đến vụ thu hoạch mua của nông dân rồi bán lại cho các nhà máy chế biến tôm.
Do đó, trong dự thảo này Tổng cục Thủy sản đưa ra tiêu chí, các nhà máy, cơ sở chế biến tôm phải có vùng nguyên liệu tối thiểu đạt 10% công suất của nhà máy, số nguyên liệu còn lại được cung cấp từ các cơ sở nuôi khác thông qua hợp đồng tiêu thụ do các cơ quan quản lý nhà nước xác nhận.
Theo dự thảo đề án, đối với các hộ nuôi tôm sẽ tiến tới áp dụng tiêu chuẩn VietGap (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt) cho tất cả các vùng nuôi tôm tập trung nằm trong quy hoạch ở ĐBSCL. Thời gian thực hiện đề án là từ năm 2015 đến năm 2020.
Có thể bạn quan tâm
Trồng sen lưu động Cứ đến mùa sen, những người trồng sen lưu động lại lang bạt khắp nơi để mưu sinh. Với họ, nghề này không đơn giản để kiếm cái ăn mà còn tiếp nối truyền thống của gia đình tự bao đời nay.
Thăm vùng trồng rau VietGap Ông Nguyễn Văn Phúc - nông dân huyện Đơn Dương (Lâm Đồng), tham gia dự án trồng rau theo quy trình VietGAP của METRO Cash & Carry Vietnam - cho biết: “Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP giúp sản phẩm được thị trường chấp nhận rộng rãi hơn, từ đó có thể tăng cơ hội bán hàng”.
Vẫn cần thương lái Ở ĐBSCL, hình ảnh những người thương lái vào tận ruộng lúa, vườn cây ăn trái... để thu mua nông sản của nông dân không còn xa lạ. Nhanh gọn, đơn giản và trả tiền ngay là nét đặc trưng trong phương thức mua bán này. Với những hộ thiếu vốn sản xuất, họ sẵn sàng cho vay.
Diện tích tiêu Tân Phú tăng 800 hécta Ông Trần Bá Đạt, Phó chủ tịch UBND huyện Tân Phú (Đồng Nai), cho biết trong gần 4 năm lại đây, diện tích tiêu trên địa bàn huyện tăng khoảng 800 hécta. Hiện nay, toàn huyện Tân Phú có gần 2 ngàn hécta tiêu.
Mô hình nuôi tôm không sên bùn mang lại hiệu quả cao Thời gian qua, tôm nuôi trên địa bàn tỉnh chết hàng loạt khiến nông dân lâm vào cảnh khó khăn. Trước tình trạng trên, mô hình nuôi tôm không sên bùn ra đời và cho hiệu quả cao.