Muốn nhận bò hỗ trợ phải nộp tiền đối ứng

“Sáng kiến” để có bò tốt
Năm 2014, 31 hộ nghèo trên địa bàn xã An Hòa được nhận hỗ trợ bò theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP. Để giúp hộ nghèo nhận được giống bò đạt chất lượng, chính quyền xã này đã nảy ra “sáng kiến” mỗi hộ nhận bò phải nộp thêm 5 - 5,5 triệu đồng tiền đối ứng.
Chị Diệu phải bỏ ra 7 triệu đồng để có giống bò hỗ trợ như ý muốn.
Vốn là hộ nghèo, gia đình ông Nguyễn Mậu (63 tuổi) và bà Tô Thị Thúy (trú thôn Long Hòa) vui mừng vì được nằm trong danh sách nhận bò hỗ trợ từ Chương trình 30a. Muốn nhận bò thì ông phải chạy vạy để có số tiền đối ứng là 5 triệu đồng. Nhưng ngặt nỗi, theo vợ chồng ông Mậu, giống bò mà gia đình ông nhận không phải bò lai mà là giống bò cỏ bình thường.
Sau khi nộp tiền nhận bò về, gia đình ông được nhận lại 500.000 đồng với lý do bò nhỏ. “Con bò không ra con bò, ốm rồi bỏ ăn mấy ngày liền. Khi nộp tiền tại xã, chúng tôi không được cấp nhận biên lai mà chỉ đơn thuần là biên bản ký nhận bò, muốn trả lại bò để lấy tiền nhưng không biết trả cho ai”- ông Mậu bức xúc.
Cũng nằm trong đợt nhận bò hỗ trợ từ Chương trình 30a nhưng con bò giống của gia đình chị Nguyễn Thị Diệu ở xóm 2, thôn Long Hoà (An Hòa) lại mập mạp và phát triển rất tốt. Nhưng để có con bò này, chị Diệu không chỉ nộp 5,5 triệu đồng tiền đối ứng mà còn bù thêm 1,5 triệu đồng để đổi lấy được giống bò mới đạt chất lượng.
“Tôi nộp 5,5 triệu đồng để nhận bò giống, chẳng may bốc thăm con bò đầu tiên bị tiêu chảy (từ trại bò). Do không còn bò để chọn nên tôi đành dắt về nhà nuôi và nhờ thú y tiêm chích đến 3 lần nhưng không khỏi. Sau khoảng 1 tuần, tôi phải đưa thêm 1,5 triệu đồng cho trại bò để có con bò mới” - chị Diệu bày tỏ.
Ưu tiên hộ có điều kiện
"Tiêu chuẩn hỗ trợ là bò cái nền tuổi từ 10 - 12 tháng tuổi, trọng lượng 100 - 150kg/con, tỷ lệ máu lai Zebu nhỏ hơn hoặc bằng 50%. Tại buổi giao nhận bò còn có sự giám sát, kiểm tra từ các phòng ban của huyện, đơn vị cung ứng, địa phương và các ngành chuyên môn”.
Ông Trần Nam Trung
Theo lý giải của ông Trần Nam Trung – Phó Chủ tịch UBND xã An Hòa, những năm trước đây, định mức hỗ trợ Chương trình 30a cho hộ nghèo không quá 14 triệu đồng/hộ. Vừa rồi, UBND tỉnh Bình Định có văn bản quy định định mức hỗ trợ này không được quá 10 triệu đồng/hộ.
Nếu ở mức đó thì bò giống không đảm bảo chất lượng, nên xã đã nảy ra “sáng kiến” kêu gọi sự tham gia đối ứng từ người dân. Xã đã xin chủ trương và được sự thống nhất của huyện. UBND xã An Hòa chỉ là bên trung gian thu nhận tiền của người dân giúp cho đơn vị cung ứng giống bò.
Đối tượng nhận bò 30a đều là những hộ nghèo, để có số tiền 5 triệu đồng nộp đối ứng, người dân phải chạy vạy rất khó khăn. Ông Trung lý giải: “Xã không bắt buộc, bà con nào khó khăn, không có tiền đối ứng thì để khi khác, chương trình này kéo dài. Xã ưu tiên cho những hộ dân có điều kiện đối ứng, có khả năng chăn nuôi, có lao động chăn dắt…”.
Có thể bạn quan tâm

Đến từ một đất nước xa xôi nhưng các chuyên gia của Liên đoàn Hợp tác xã Cộng hòa Liên bang Đức (DGRV) có những hiểu biết sâu sắc về tình hình phát triển kinh tế tập thể của Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng. Đặc biệt, họ đã chia sẻ những kinh nghiệm rất thiết thực về phát triển kinh tế tập thể, nhất là khu vực hợp tác xã (HTX) nông nghiệp.

Sau khi đã tập huấn cho nông dân về kỹ thuật trồng và cách chăm sóc giống cây hoa phong lan, Trạm Khuyến nông huyện Lấp Vò vừa phối hợp UBND xã Bình Thạnh Trung tổ chức cấp phát cây giống hoa phong lan cho 20 hộ nông dân trên địa bàn xã, mỗi hộ được nhận 100 cây giống.

Tham gia cổ phần với doanh nghiệp hàng đầu của Nhật Bản để khai thác, xuất khẩu cá ngừ đại dương - chuyện tưởng chỉ có trong mơ của ngư dân miền Trung - lại đang được triển khai thí điểm. Đây là cơ hội lớn để ngư dân Việt Nam chuyển mình, thay đổi cách làm nhằm nâng cao lợi nhuận.

Do thời tiết diễn biến phức tạp, gây bất lợi cho quá trình nuôi tôm. Bên cạnh đó, việc chăm sóc, quản lý ao nuôi không hợp lý, chất lượng con giống không đảm bảo nên đã có hiện tượng tôm chết xảy ra ở một số ao nuôi tôm công nghiệp trên địa huyện Đầm Dơi (Cà Mau).

Trong đó, sản lượng thủy sản nước lợ, mặn đạt 5.435,5 tấn các loại (tôm chân trắng, tôm sú, cua, cá…), tăng 33,7%; sản lượng nước ngọt 3.468,9 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Giá tôm chân trắng tăng nhẹ, riêng tôm sú và cá nước lợ tăng cao. Tôm sú loại 40 con/kg có giá từ 180.000 - 200.000 đồng/kg; cá dìa, cá đối, cá kình trên 150.000 đồng/kg; cua có giá 150.000- 170.000 đồng/kg.