Mô hình nuôi nhím cho hiệu quả kinh tế nông hộ

Ông cho biết: “Đây là các loài động vật hoang dã và rất quý hiếm; chiếm ít diện tích chuồng nuôi, có thể tận dụng chuồng nuôi heo để nuôi. Thức ăn rất dễ tìm nên khâu chăm sóc và theo dõi cũng không khó, ít bị dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt thấp; khi được chăm sóc tốt, cho ăn đầy đủ, vệ sinh chuồng sạch sẽ... nhím rất mau lớn và sinh sản nhiều”.
Đối với chuồng nuôi, ông thiết kế nền chuồng bằng xi măng từ nền chuồng heo cũ, xung quanh được xây tường cao 1,5 mét, trong chuồng được chia thành nhiều ô, mỗi ô chuồng nuôi có diện tích 1,5m2, độ cao 1m, vách ngăn các ô được làm bằng lưới sắt.
Nhím là loại ăn tạp nên không kén thức ăn, chủ yếu ăn rau, củ, quả và các sản phẩm nông nghiệp như: cám, gạo, bắp, khoai lang... Nhím con từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành khoảng 10 tháng, trọng lượng đạt từ 8 - 10kg. Bình quân mỗi tháng nhím tăng trọng khoảng 1kg. Sau thời gian mang thai 3 tháng nhím sinh sản, mỗi năm nhím sinh sản 2 lần.
Nhím con từ lúc sinh ra đến khi biết ăn và bán được cho người nuôi phải từ 2 đến 3 tháng, khi đó nhím có trọng lượng từ 3 đến 4kg.
Theo kinh nghiệm ông chia sẻ: Nuôi nhím rất rảnh thời gian, mỗi ngày chỉ rửa chuồng 1 lần và cho nhím ăn 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều, thức ăn đơn giản, dễ kiếm, có thể tận dụng được phụ phẩm nông nghiệp. Chuồng trại dễ làm, không tốn nhiều chi phí. Nhím ít khi mắc bệnh, lâu lâu bị tiêu chảy nhưng sẽ tự khỏi sau 1 - 2 ngày.
Ðồng thời, người nuôi nên rải vôi bột để tiêu độc, sát trùng chuồng nuôi nửa tháng một lần. Nhím rất sợ nước nên khi rửa chuồng không để ướt nhím. Chuồng nuôi nhím phải thiết kế nửa sáng, nửa tối. Trong chuồng nuôi phải có cục đá để nhím mài răng.
Hiện nay sau hơn một năm nuôi, đàn nhím gia đình ông đã tăng lên 40 con, mỗi con có trọng lượng từ 10 đến 15kg, hiện nay mỗi tháng bình quân gia đình ông xuất bán được trên 100kg nhím thương phẩm, với giá từ 500.000 đồng đến 600.000 đồng/kg và con giống có giá 15 triệu đồng/cặp, trọng lượng 3 kg/con.
Có thể nói mô hình chăn nuôi nhím của hộ ông Giãng Văn Nhãn đã tạo được hiệu quả rất đáng khích lệ, mở ra triển vọng về một mô hình chăn nuôi mới đem lại lợi nhuận cao ở địa phương. Từ mô hình chăn nuôi của gia đình ông là tiền đề cho các gia đình trong và ngoài xã học tập, phát huy tinh thần lao động, sáng tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo và mở ra hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của địa phương…
Có thể bạn quan tâm

Xuất phát điểm từ điều kiện khó khăn, nhưng Đảng ủy, UBND xã Bình Thành, huyện Phụng Hiệp, luôn nỗ lực hoàn thành từng tiêu chí nông thôn mới với phương châm “Làm đến đâu, chắc đến đó”.

AIFTA nằm trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN- Ấn Độ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang quốc gia này.

Xuất khẩu cá tra giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi và sản lượng cá cũng giảm đáng kể. Giá bán không tăng và cá tra xuất khẩu của Việt Nam đang bị cạnh tranh với nhiều loại cá xuất khẩu khác của một số nước.

Mỗi năm, Việt Nam sản xuất được trên 1,4 triệu tấn càphê, trong đó xuất khẩu 95-97% tổng sản lượng. Mặc dù đứng thứ 2 thế giới về sản xuất và xuất khẩu càphê nhưng giá trị mà càphê mang lại cho Việt Nam vẫn không cao.

Qua khảo sát của dự án LCASP, chỉ một phần nhỏ khí gas sinh ra từ các trang trại chăn nuôi lợn được sử dụng cho nhu cầu đun nấu tại trang trại, phần lớn khí gas còn lại bị đốt bỏ hoặc xả ra môi trường.