Mô Hình Nuôi Cá Sặc Rằn Đạt Hiệu Quả Cao Ở Vùng Lạc Địa, Huyện Ba Tri

Những năm gần đây, phong trào nuôi cá nước ngọt nhằm tăng thu nhập đã được nông dân Bến Tre ứng dụng rộng rãi. Tùy theo điều kiện đất đai, môi trường nước và nguồn vốn, nông dân đã chọn nuôi những đối tượng khác nhau, trong đó, con cá sặc rằn được nuôi phổ biến ở vùng Lạc địa, thuộc xã Phú Lễ, huyện Ba Tri.
Cá sặc rằn thích hợp ở vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa hàng năm nhiều, những nơi nước lợ, có hàm lượng chất hữu cơ cao, lượng oxy hoà tan và độ pH thấp. Cá sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ từ 25 đến 30 độ C và pH nước trung tính. Ở Bến Tre, vùng Lạc địa xã Phú Lễ, huyện Ba Tri là nơi có điều kiện sinh thái tự nhiên mà cá sặc rằn có thể sinh sản, phát triển tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Anh Nguyễn Văn Lạc ở ấp 2, xã Phú Lễ huyện Ba tri là một trong những nông dân điển hình trong phong trào nuôi cá sặc rằn ở vùng Lạc địa. Với 3 ngàn m2 mặt nước, mỗi năm, anh thu được 20 triệu đồng sau khi trừ đi chi phí. Trao đổi với chúng tôi, anh Lạc cho biết, hiện nay, nguồn cá giống đã được anh cho sinh sản tự nhiên. Để có nguồn cá giống tốt, anh tiến hành lai tạo và hoán đổi cá bố mẹ được tuyển chọn sau mỗi vụ nuôi.
Ngoài ra, anh còn nghiên cứu làm các giá thể cho cá đẻ bằng cách thả cành trâm bầu khô xuống ao, tạo những ổ cho cá đẻ tự nhiên, sau đó cho cá nở tại chỗ hoặc vớt sang ao khác. Trong điều kiện tự nhiên, vào mùa hè khoảng từ tháng 5 đến tháng 9 là thời gian cá đẻ. Thông thường, khoảng 1 năm, cá thành thục sinh sản lần đầu. Trung bình, mỗi cá mẹ đẻ khoảng 25 ngàn trứng/đợt.
Để phân biệt cá đực, cá cái có thể dễ dàng nhận thấy qua những đặc điểm như: cá đực có tia vi chạm dài tới đuôi, trong khi cá cái ngắn hơn.
Cá đực có đường sắc tố chạy dài từ sống lưng xuống bụng rõ ràng, cá cái không có màu sắc trên thân và vi. Trong ao nuôi, anh Lạc luôn giữ lại 30 cặp cá bố mẹ để làm giống. Ao ương cá cần có đủ ánh sáng, đây là yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu sử dụng những ao thiếu ánh sáng thì kết quả ương nuôi sẽ thấp. Vì vậy, không nên để bóng cây che lên mặt ao.
Về kỹ thuật nuôi cá sặc rằn, anh Lạc cho biết, phải quản lý tốt các công đoạn từ chăm sóc cá giống, cải tạo ao nuôi và chăm sóc cá thương phẩm. Độ sâu ao nuôi từ 1 đến 1,5m, gần nguồn nước sạch và cấp thoát nước chủ động. Mật độ cá nuôi từ 15 đến 20 con/m2.
Cá giống trước khi thả nuôi phải khoẻ mạnh, không xây xát, không dị hình và phải đồng cỡ. Nguồn thức ăn cho cá sặc rằn thương phẩm gồm: cám, bột cá xay nhỏ, ruốc. Khẩu phần thức ăn từ 5 đến 7% trọng lượng cá/ngày. Khi cá còn nhỏ, hoà bột đậu xanh và trứng gà làm thức ăn. Cần làm sàn đựng thức ăn để dẽ dàng kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày. Cho cá ăn bình quân 2 lần/ngày.
Nên thường xuyên quan sát ao cá để kịp thời phát hiện cá bị bệnh và điều trị.
Sau 8 đến 10 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng 100 đến 150gr/con và có thể thu hoạch. Nên thu hoạch tỉa theo từng đợt và thu hoạch cá lúc trời mát. Mô hình nuôi cá sặc rằn vùng Lạc địa, thuộc xã Phú Lễ, huyện Ba Tri tương đối dễ áp dụng và có thu nhập cao, được Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre khuyến khích nhân rộng.
Có thể bạn quan tâm

heo Văn phòng Điều phối xây dựng nông thôn mới (XDNTM) thuộc Sở NN&PTNT, sau 5 năm thực hiện (2011-2015), toàn tỉnh đã huy động các nguồn lực với tổng số vốn 3.635 tỉ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất.

Những năm gần đây, mô hình nuôi bò vỗ béo ở huyện Vân Canh phát triển khá mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện.

Ông Phạm Văn Chung, Phó trưởng Phòng Kinh tế huyện Hoài Nhơn, cho biết: Vụ sản xuất Đông Xuân 2015-2016, Hoài Nhơn có kế hoạch xây dựng 60 cánh đồng lớn (CĐL).

Giảm công lao động, rút ngắn thời gian sản xuất, tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm và tăng thu nhập, tiêu thụ dễ dàng là những ưu điểm của phương thức sản xuất muối trải bạt được diêm dân trong tỉnh ứng dụng gần đây.

Không chỉ sản phẩm từ các thương hiệu lớn của Nhật và các nước châu Âu vốn đã khẳng định vị thế, mà các tên tuổi đến từ các nước ASEAN cũng đang “đổ bộ” mạnh mẽ vào thị trường Việt.