Làm Giàu Nhờ Mạnh Dạn Ứng Dụng Khoa Học Kỹ Thuật

Gia đình anh Ninh Hồng Hà ở thôn Đắk M’rê, xã Quảng Tân (Tuy Đức) hiện có 3 ha cà phê và 1,5 ha hồ tiêu đều đang trong thời kỳ kinh doanh. Thời gian này, gia đình anh đang vô cùng hứng khởi bởi tiếp tục sẽ có thêm một vụ mùa bội thu.
Theo ước tính, mùa này, gia đình anh sẽ thu về trên 10 tấn cà phê và 6 tấn tiêu. Với sản lượng trên, sau khi trừ chi phí, anh cũng có lãi gần 700 triệu đồng. Trao đổi về kinh nghiệm để hai loại cây công nghiệp này đều phát triển tốt, ít sâu bệnh, cho năng suất cao, anh Hà cho biết là đã mạnh dạn học tập, ứng dụng các tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
Cụ thể, đối với cà phê, anh đã mua giống tại vườn ươm của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông-Lâm nghiệp Tây Nguyên về trồng, đều là những giống kháng được các bệnh như rỉ sắt, sản lượng cao, chín đồng đều. Cùng với nguồn giống tốt, anh đã áp dụng một quy trình chăm sóc hợp lý.
Theo đó, trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển, cây cà phê được cắt tỉa cành, tạo tán tròn đều. Anh không để nhiều cành, mà cắt bớt những cành phụ, già để dinh dưỡng tập trung nuôi cành chính, khỏe mạnh. Theo anh thì cách phòng các loại bệnh thông thường trên cây cà phê bằng việc thường xuyên thăm vườn, theo dõi cây, vệ sinh sạch sẽ cỏ dại, tạo không gian vườn lúc nào cũng thông thoáng. Nếu phát hiện cây bị bệnh thì anh rất cẩn trọng trong việc dùng thuốc bảo vệ thực vật.
Ban đầu, anh thường nghiên cứu các tài liệu của ngành chức năng, thậm chí gọi điện thoại hỏi các cán bộ kỹ thuật về những biểu hiện của cây, chẩn đoán bệnh rồi mới mua loại thuốc nào để phun. Việc phun các loại thuốc, anh cũng không tiến hành tràn lan mà đúng liều lượng của nhà sản xuất.
Anh Hà cho biết: “Đối với những loại sâu, bệnh như nấm hồng, mọt đục cành, sâu đục vỏ trái, tôi rất ít dùng thuốc mà chủ yếu phòng chống bằng cách phát hiện sớm, cắt bỏ những cành, cây bị sâu, trái rụng mang đi tiêu hủy”.
Đối với cây tiêu, anh trồng bằng hai giống tiêu Lộc Ninh, Vĩnh Linh trên trụ sống. Để hạn chế sâu bệnh, giúp cây cho năng suất cao, qua nhiều năm, anh luôn chú ý tỉa bỏ tất cả các dây thân, cành mọc phía dưới gốc tiêu nhằm hạn chế sâu bệnh phát sinh lây lan nhanh từ đất.
Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên tỉa bỏ các dây thân mọc ngoài bộ tán tiêu, các dây thân mọc quá dài ở đỉnh trụ, hãm ngọn dây tiêu ở độ cao vừa phải, từ 5m- 6 m, không để ngọn dây tiêu trùm lên ngọn cây trụ sống. Anh cũng sử dụng cân đối các loại phân bón hữu cơ và vô cơ.
Trong đó, gia đình dùng nhiều hơn các loại phân hữu cơ, sinh học như phân bò, phân hoai mục từ vỏ cà phê nhằm giảm chi phí, tăng độ tơi xốp cho đất… Vì thế, cây trồng luôn cho năng suất ổn định và chất lượng sản phẩm được đảm bảo.
Có thể bạn quan tâm

Đây là mô hình nằm trong chương trình Đề án về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với sản phẩm thủy sản có nguồn gốc nuôi trồng nhằm mục tiêu tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật giúp người nuôi từng bước tiếp cận với phương thức sản xuất mới từ đó nâng cao trình độ sản xuất, thích hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường.

Cá chày mắt đỏ là một trong những loài cá bản địa sống ở các sông, hồ tự nhiên khu vực phía Bắc, đến nay trở nên quý hiếm do sản lượng ngày càng suy kiệt. Việc nhân giống cá chày mắt đỏ và phổ biến quy trình nhân giống có ý nghĩa lớn trong bảo tồn đa dạng sinh học tự nhiên, đồng thời gợi mở cho các hộ nuôi trồng thủy sản một hướng phát triển kinh tế tiềm năng.

Nằm ở lưu vực sông Sêrêpôk đoạn qua xã Ea Na, huyện Krông Ana, nơi nối liền hai huyện Krông Ana (tỉnh Dak Lak) và huyện Krông Nô (tỉnh Dak Nông) có một trang trại cá diêu hồng, với sản lượng cá xuất ra hàng ngày lên tới 3-5 tấn. Vì nằm trên cồn, biệt lập với đất liền nên người dân quanh vùng đặt tên cho nơi này là "đảo cá".

Sau hơn ba năm triển khai thí điểm, đến nay, mô hình bảo hiểm nông nghiệp, trong đó có nghề nuôi tôm, đang từng bước đi vào đời sống, trở thành tấm lá chắn cho người nông dân trước những rủi ro, biến động trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện lại gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải được tháo gỡ.

Ngoài ra, việc liên kết các hộ dân NTTS còn giúp cho việc điều tiết cống tiêu thoát nước vùng nuôi bảo đảm tính mùa vụ sản xuất, tham gia quản lý giống thủy sản du nhập vào vùng nuôi... đồng thời góp phần nâng cao ý thức của các hộ dân trong quá trình NTTS để đạt năng suất, sản lượng cao.