Kỹ Thuật Trồng Khoai Tây Bằng Phương Pháp Làm Đất Tối Thiểu Có Che Phủ Rơm, Rạ

Các biện pháp kỹ thuật:
1. Giống và thời vụ: khung thời vụ từ ngày 15-10 đến 20-11 và bộ giống của địa phương.
2. Chọn đất - làm đất:
- Chọn chân đất cát pha, thịt nhẹ, thoát nước tốt, trước khi cày đất đủ ẩm.
- Sau khi thu hoạch lúa, cắt ngắn gốc rạ sát đất, dọn sạch rạ trên ruộng.
- Tiến hành cày 1 sá xung quanh ruộng tạo rãnh và cày chia luống rộng khoảng 1,2m, mỗi rãnh cày 2 sá để lên luống.
3. Phân bón:
Lượng bón cho 1 sào bắc bộ: (Như biện pháp trồng thông thường)
Phân chuồng hoai mục: 500-700 kg; lân Lâm Thao: 20kg; kali clorua: 8-9 kg; đạm ure: 7-8 kg
Có thể tăng giảm tùy theo từng chân đất.
Cách bón:
- Bón lót: toàn bộ phân chuồng, lân, vôi, 50% kali, 50% đạm vào giữa luống (Lưu ý bón đạm, kali trước sau đó bón phân chuồng + lân + vôi lên sau).
- Bón thúc 1: Sau khi mầm khoai mọc đạt khoảng 15 - 20 cm: tưới 20 - 25% lượng đạm.
- Bón thúc 2: Sau khi trồng 40 - 45 ngày bón dúi gốc hoặc tưới nốt lượng phân còn lại.
4. Kỹ thuật trồng:
- Sau khi bón phân, dùng cuốc lên luống cho gọn gàng, lưu ý phương pháp này không vun xới nên rãnh phải bảo đảm thoát nước tốt và kín phân.
- Đặt củ giống theo 2 rạch thẳng theo chiều dài của luống, hàng cách hàng 40-45 cm, cây cách cây 25-30cm (mật độ như phương pháp trồng truyền thống). Đặt xong củ nào dùng tay bốc đất bột ở má luống hoặc rãnh phủ kín củ giống.
- Sau khi đã đặt củ giống xong toàn bộ ruộng tiến hành che phủ rơm, rạ kín mặt luống sao cho ép xuống lớp rơm rạ đó có độ dày khoảng 7 cm là được (cứ 1 sào khoai cần 4 sào rạ)
- Tiếp đến dùng bình ôdoa tưới nước ướt đều lên mặt luống.
5. Kỹ thuật chăm sóc:
- Do che phủ rơm rạ và ruộng làm còn đủ ẩm nên ở trong luống được giữ ẩm rất tốt, do vậy chỉ tưới nước khi nào ruộng thực sự khô (vì cây khoai tây không ưa độ ẩm cao).
Kỹ thuật tưới rãnh: đưa nước chảy đều vào 2/3 các rãnh sau đó tháo kiệt ngay, không được ngâm nước lưu tại ruộng.
- Tiến hành nhổ cỏ dại và che đậy lại những nơi rơm rạ bị lật.
- Sau khi cây mọc được khoảng 7-10cm tỉa bớt mầm mỗi cây chỉ giữ lại từ 2-3 mầm khỏe.
6. Thu hoạch:
Chọn ngày khô ráo, cây khoai đã có biểu hiện xuống củ (vàng đều cả cây) tiến hành thu hoạch, phương pháp này do không vun xới nên củ khoai thường tập trung ở sát mặt đất nên không cần dùng cuốc để thu hoạch tránh gây sứt sát cho củ.
Có thể bạn quan tâm

Mùa lũ từ tháng 7- 11 hàng năm. Trong 75 năm qua, ở ĐBSCL chỉ có 01 năm không xảy ra lũ tụt (1998), lũ càng lớn, mức ngập lụt càng sâu, diện ngập lụt càng rộng. Mưa lớn trong các tháng 8, tháng 10, trùng với lúc có đỉnh lũ, làm cho thời gian rút nước kéo dài. Vì vậy, chỉ có thể phát triển bò sữa ở những vùng "kiểm soát dược lũ”, có đê bao bảo vệ khu dân cư và chuồng trại bò sữa, bảo đảm giao thông trong mùa lũ, các khu trồng cỏ không bị úng ngập dài ngày.

Trong tuần đầu không được thả bê ra ngoài, sau đó nếu thời tiết tốt thì có thể thả bê ra ngoài với mục tiêu vận động, thời gian chỉ khoảng 1-2 giờ/ngày. Từ tháng thứ 2 trở đi có thể chăn thả cùng mẹ trên đồng bãi

Vào mùa khô, bò chỉ ăn rơm, cỏ khô, thiếu thức ăn xanh nên hệ thống tiêu hóa, sức khỏe giảm. Đặc biệt hệ vi sinh vật trong dạ cỏ chưa thích ứng với các thức ăn khác. Đầu mùa mưa, cỏ phát triển, bò ăn nhiều nhưng sức tiêu hóa kém, không thích hợp với hệ vi sinh vật trong dạ cỏ dẫn đến tiêu chảy, rối loạn hệ thống tiêu hóa gây ra các phản ứng lên men, sinh hơi nhiều gây chướng hơi dạ cỏ.

Ngay sau khi bê được sinh ra, nếu dây rốn không tự đứt, người đỡ đẻ dùng tay trái cầm rốn bê, cách cuống rốn khoảng 10 cm, đồng thời dùng ngón trỏ và ngón cái tay phải vuốt mạnh rốn xuôi về cuống và cắt rốn ở khoảng cách 5 - 6 cm, sau đó sát trùng chỗ cắt bằng cồn iốt 5%.

Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập vào ống tiết sữa, nhân lên trong tuyến sữa. Sự xuất hiện hoặc không xuất hiện bệnh được xác định thông qua việc lấy mẫu sữa đảm bảo vô trùng ở từng núm vú riêng biệt, nuôi cấy mẫu trong điều kiện phòng thí nghiệm. Bệnh có thể ở dạng lâm sàng hoặc cận lâm sàng tùy thuộc vào mức độ của quá trình viêm nhiễm.