Kỹ Thuật Thu Hoạch Dông Con

Sau những chuyến đi chơi ở Bắc Bình và nhận thấy địa phương này có nhiều hộ nuôi dông sinh sản, tuy nhiên khâu thu hoạch dông con gặp phải những khó khăn, hiệu quả kinh tế mang lại không cao, anh Ngô Viết Năng đã về bàn bạc cùng các anh Tôn Văn Bảo, Trần Văn Nhân thuộc khu phố 2, phường Lạc Đạo, TP. Phan Thiết tìm ra một giải pháp thu hoạch mới.
Và giải pháp này đã “ẵm” luôn giải ba cuộc thi sáng tạo kỹ thuật tỉnh lần V (2012 - 2013) vì tính sáng tạo và ứng dụng mà nó mang lại.
Anh Ngô Viết Năng cho biết: “Một giải pháp có sự kết hợp của 3 người cùng tâm huyết nên ngay từ khi lên ý tưởng đến quá trình thực hiện khá thuận lợi. Ngoài việc khảo sát thực tế nhiều lần, chúng tôi phải vẽ lại trên giấy để khi đưa ra ứng dụng thực tiễn đảm bảo tính chính xác cao nhất”.
Theo cách thu hoạch truyền thống của các hộ nuôi tại địa phương chủ yếu thực hiện bằng việc tìm bắt dông con trong các hang hoặc chờ khi dông lên khỏi mặt đất. Việc làm trên tốn nhiều thời gian, công sức và hiệu quả không cao, bởi dông con lên khỏi mặt đất vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nên người nuôi không thể chủ động để thu hoạch hết.
Vì vậy chúng tôi đã tìm ra cách sử dụng xô nhựa bố trí ở 4 góc tường của chuồng nuôi để khắc phục những nhược điểm trên.
Với đặc tính xô nhựa trơn, không có độ bám nên khi dông con rơi vào không thể leo ra ngoài. Bà con có thể sử dụng xô có đường kính 30cm, cao 50cm.
Dùng cuốc, xẻng đào đất có độ sâu 49cm, sau đó bỏ các xô nhựa xuống và lấp đất xung quanh xô. Lưu ý chừa lại 1cm chiều cao của xô so với mặt đất để tránh nước mưa tràn vào khi mưa lớn, phía trên miệng xô được che bằng các loại bạt hoặc lá cây khô để che mưa, nắng cho dông con. Bố trí chiều cao của dụng cụ che chắn so với miệng xô cách nhau 1cm để tránh dông bố mẹ lọt vào.
Dông con sau khi ra khỏi hang, theo quán tính chúng chỉ chạy tới 4 góc của chuồng nuôi, khi chạy tới các góc tường thì bị rơi xuống các xô, nên chỉ cần định một thời gian để bắt.
Giải pháp trên rất dễ thực hiện, ít tốn kém công sức thu hoạch và tránh thất thoát dông con. Hiện một số hộ nuôi ở Hòa Thắng đã sử dụng dụng cụ này áp dụng trong quá trình nuôi.
Có thể bạn quan tâm

Riêng tại huyện An Phú, những địa phương trước đây vốn có nguồn thủy sản mùa nước dồi dào như: Phước Hưng, Quốc Thái, Khánh An, Phú Hữu, Vĩnh Hội Đông… thì hiện nay chỉ có vài điểm chợ bán với số lượng ít cá đồng, chủ yếu người dân vẫn phải ăn cá nuôi.

Việc sản xuất nhân tạo giống nhiều loài cá quý của Trung tâm Thủy sản tỉnh Tuyên Quang thành công đã giải quyết được vấn đề về con giống, cũng như bảo vệ được nguồn lợi cá quý tự nhiên đang có nguy cơ cạn kiệt.

Có thể so sánh mô hình nuôi trồng thủy sản kiểu mới này ở huyện Bình Đại (Bến Tre) cũng giống như mô hình chăn nuôi bằng đệm lót sinh học trong chăn nuôi heo, gà ở các huyện trong tỉnh. Mô hình này có nhiều ưu điểm là ít vốn, an toàn, ăn chắc, bảo vệ môi trường, phù hợp với bà con nông dân khi không đủ vốn để nuôi tôm theo hướng công nghiệp.

Với trên 20km bờ biển, vùng bãi triều rộng lớn và nguồn phù sa, vi sinh vật, vi khoáng núi đá vôi vô tận của 2 cửa sông Ninh Cơ và sông Đáy đổ về đã tạo cho huyện Nghĩa Hưng (Nam Định) nhiều lợi thế trong nuôi trồng thủy, hải sản; đặc biệt thích hợp cho sự phát triển, sinh trưởng của cá bống bớp.

Các hộ dân nghèo không có đất sản xuất nông nghiệp tận dụng các khoản đất trống xung quanh nhà hoặc dưới sàn nhà để thiết kế bể lót bạt ny-lon nuôi lươn, nâng cao thu nhập cho gia đình.