Hướng Làm Giàu Mới Ở Cửa Biển

Mới đi vào sản xuất hơn 1 năm, sản phẩm sứa ăn liền Cửa Việt do chị Nguyễn Thị Thiếc, thôn Xuân Lộc, xã Gio Việt (Gio Linh, Quảng Trị) đã có mặt hầu khắp các tỉnh, thành phố trong nước.
Không chỉ được người tiêu dùng ưa chuộng, cuối năm 2013, sản phẩm sứa ăn liền của chị Thiếc vinh dự được Liên hiệp khoa học doanh nhân Việt Nam, Bộ Khoa học & Công nghệ - Cục Công tác phía Nam trao Huy chương vàng chất lượng Việt Nam phù hợp tiêu chuẩn.
Ở vùng cửa biển, mỗi người dân có một con đường và cách làm riêng để sống dựa vào biển. Tuy nhiên, đa phần mọi người đều chú trọng đầu tư khai thác các sản phẩm biển có giá trị kinh tế như: tôm, mực, ốc, các loài cá… chứ chẳng mấy ai chú ý đến loài sứa. Thân sứa bọt bèo, trôi nổi dạt vào bờ, người dân thấy thì nhặt về tự chế biến để ăn hoặc bán lẻ ở các chợ.
Vài năm trở lại đây, một số cơ sở chế biến sứa nguyên liệu thô (sứa ướp muối) xuất bán sang thị trường Trung Quốc mọc lên ở các xã ven biển nên người dân bắt đầu chú tâm khai thác loài hải sản này. Nhưng sứa xuất hiện theo mùa, sản phẩm xuất bán là sản phẩm thô, phụ thuộc thị trường Trung Quốc nên bị tư thương ép giá.
Lúc bấy giờ, chị Thiếc đang làm đại lý phân phối sản phẩm sứa ăn liền cho một doanh nghiệp ở Nam Định, chị nhận thấy người tiêu dùng rất chuộng món sứa ăn liền trong khi quê mình có vùng nguyên liệu sứa dồi dào nhưng chưa có ai đầu tư chế biến sâu sản phẩm này.
Vì vậy, chị Thiếc quyết định khăn gói lên đường ra Nam Định, tìm đến các cơ sở chế biến sứa lân la dò hỏi, học tập kinh nghiệm. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh trên thương trường nên dù là bạn hàng lâu năm nhưng các chủ cơ sở chế biến sứa ở đây chỉ hướng dẫn sơ qua kỹ thuật chế biến cho chị Thiếc chứ không muốn lộ bí quyết nhà nghề. Chính vì vậy, thời gian đầu khi bắt tay vào sản xuất, chị Thiếc phải vứt bỏ hàng chục tấn sứa chỉ để làm thử nghiệm.
Theo lời của chị Thiếc, khó nhất trong việc chế biến sứa là công đoạn ướp muối. Công nghệ để “biến” mỗi con sứa có khi nặng vài chục ki lô gam vớt từ biển về trở nên trắng nõn, giòn, thơm mát, bổ dưỡng phụ thuộc nhiều vào công đoạn ướp muối.
Sứa tươi được cắt nhỏ, phân chia thân và chân riêng biệt rồi đổ vào máy quay, cán trong vòng 9 giờ đồng hồ để ép hết nước và chất nhớt ra ngoài cho sứa săn giòn. Sau đó cho vào bể ngâm muối với độ mặn phù hợp trong vòng 5 ngày để loại bỏ chất tanh giúp sứa trắng sạch hơn.
Chị Thiếc cho biết: “Sứa ngon là sau khi ướp muối xong nó phải trong, cứng, săn giòn và không còn vị tanh. Để tìm ra bí quyết chế biến sứa tôi phải làm đi làm lại nhiều lần. Sau khi có được sản phẩm sứa sạch rồi, qua sách báo và kinh nghiệm nội trợ của mình tôi tự pha trộn thêm các gia vị như tỏi, giấm, ớt, bột ngọt… và đóng gói.
Sứa là món ăn hợp khẩu vị mùa hè, vừa mát, bổ dưỡng, giá lại khá bình dân. Hiện nay các nhà hàng, tiệc cưới hỏi thường dùng sứa làm món nộm khai vị. Sản phẩm sứa ăn liền được nhiều người tiêu dùng lựa chọn vì nó có thể sử dụng ngay sau khi mở gói gạn ráo nước”.
Với suy nghĩ, nguồn sứa nguyên liệu địa phương khá dồi dào, nếu chỉ xuất bán dưới dạng ép khô qua thị trường Trung Quốc sẽ rất lãng phí vì nhu cầu tiêu thụ ở thị trường nội địa rất lớn, chị Thiếc trở thành người đầu tiên ở miền Trung đầu tư xây dựng cơ sở chế biến sứa ăn liền và biến món sứa từ một món ăn dân dã trở thành đặc sản quê hương.
Năm 2013, chị Thiếc chế biến được 50 tấn sứa ăn liền, sứa đóng gói đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Dự kiến, để đáp ứng nhu cầu thị trường, năm 2014 chị Thiếc sẽ nâng sản lượng chế biến của cơ sở lên 70 tấn sứa ăn liền.
Theo kinh nghiệm của người dân cửa biển, mùa sứa xuất hiện hàng năm thường bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 4 âm lịch. Để đáp ứng công suất chế biến của xưởng, ngoài thu mua sứa tươi ở các vùng biển trong tỉnh, chị Thiếc còn đưa xe đi thu mua sứa nguyên liệu ở các tỉnh, thành phố từ Nghệ An đến Khánh Hòa.
Hiện, cơ sở chế biến sứa ăn liền của chị Thiếc giải quyết việc làm cho 3 lao động thường xuyên với mức thu nhập 4 - 5 triệu đồng/người/tháng; 10 lao động thời vụ và hàng trăm lao động biển cũng có thêm thu nhập ổn định nhờ khai thác sứa biển cung cấp nguyên liệu cho chị Thiếc.
Có thể bạn quan tâm

Trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống dân sinh thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên đầu diện tích đã và đang là đòi hỏi mà ngay cả ngành quản lý đến người sản xuất cần thực hiện.

Trên cở sở học tập kinh nghiệm từ mô hình đã cho hiệu quả tại tỉnh Bình Thuận, Phòng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện Ninh Hải đã triển khai thí điểm mô hình trồng thanh long ruột đỏ tại xã Xuân Hải. Tuy bước đầu được trồng thí điểm trên diện tích 3 sào với 5 hộ tham gia, thế nhưng do hiệu quả cao hơn so với cây trồng khác nên thanh long ruột đỏ đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều người dân địa phương.

Năm 2000 tổ hợp tác góp vốn làm ăn tập thể theo khả năng của từng hộ, vì vốn ít, sản xuất muối bình thường nên nguồn thu không cao. Năm 2010 Tổ hợp tác xã Hiệp Phát với 8 thành viên tham gia góp hơn 4 tỉ đồng để sản xuất 8 ha muối trải bạt.

Một ngày giữa tháng 8, chúng tôi đến thăm Câu lạc bộ trồng táo xã Nhơn Hải (Ninh Hải). Với nụ cười rạng rỡ, tay bắt mặt mừng, ông Nguyễn Phế, Chủ nhiệm CLB lại thông báo thêm một tin vui: “Được sự hỗ trợ của Hội Nông dân tỉnh, ngày 9-8 vừa qua, chúng tôi đã thành lập HTX trồng táo Mỹ Khánh, với sự tham gia của 20 xã viên vốn là các thành viên của CLB trồng táo trước đây, với tổng diện tích trồng táo là 13 ha”.

Sau 4 tháng triển khai thực hiện mô hình trồng bắp lai thương phẩm, đến nay người dân xã Phước Đại (Bác Ái) đã thu hoạch với năng suất và hiệu quả kinh tế đạt cao.