Giải bài toán nguồn lực xây dựng nông thôn mới

Ông Nguyễn Quốc Cường.
PV: Phong trào xây dựng NTM đã đi vào năm thứ 5 và như mọi phong trào, nếu không giải quyết được vấn đề “nguồn lực”, thì khó mà thực hiện. Có lo ngại phong trào trở thành hình thức khi nguồn lực tài chính đang dần vơi không thưa ông?
Ông Nguyễn Quốc Cường: Đúng là trong 4 năm triển khai, vấn đề khó nhất trong chương trình xây dựng NTM là huy động nguồn lực. Xây dựng NTM đòi hỏi nguồn lực đầu tư là rất lớn nhưng trên thực tế, khả năng huy động của chúng ta còn chưa đáp ứng được yêu cầu, kể cả nguồn ngân sách của Trung ương.
Trong năm 2014, ngân sách Trung ương đã cố gắng đầu tư 5.300 tỷ đồng, gấp 3 lần bình quân của 4 năm trước đây và QH cũng đã quyết định một gói 16 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư trong 3 năm từ 2014 đến năm 2016, nhưng so với tổng lực cần yêu cầu thúc đẩy đổi mới bản về chất của khu vực này cần nguồn lực hơn thế rất nhiều.
Tuy nhiên, cho đến nay, chương trình xây dựng NTM đã đạt được những kết quả hết sức đáng khích lệ. Trước hết, về nhận thức, nhân dân nhận thức coi đây là sự nghiệp của chính mình và cho chính cuộc sống của họ. Thứ hai, chính quyền của các địa phương năm vừa qua đã xác định đây là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Do đó là hầu hết các địa phươnng đã có những chủ trương, chính sách, có những cách chỉ đạo hết sức sáng tạo.
Chính vì thế, năm 2014, chúng ta đã có được 785 xã (chiếm khoảng 9% số xã) đạt được 19 tiêu chí mục tiêu quốc gia đặt ra. Chúng ta cũng có được 2 huyện của tỉnh Đồng Nai là đạt huyện NTM. Cùng với Đồng Nai thì một số những huyện khác, ví dụ như một số huyện của Lâm Đồng, một số tỉnh khác thì cũng đạt ngưỡng là huyện NTM cho thấy phong trào của chúng ta đã phát triển không những về bề rộng mà còn có sự chuyển biến về chất lượng.
Nhiều địa phương hô hào DN chung tay, trong khi chúng ta đều biết tam nông là khu vực đầu tư nhiều nhất mà lãi ít nhất thưa ông?
- Trên thực tế thì năm 2014 mặc dù nhìn tổng quan chúng ta chưa bằng lòng với chúng ta nhưng cũng đã xuất hiện được rất nhiều mô hình xã hội hóa tốt trong lĩnh vực này. Ví dụ như Hà Nam, Thái Bình đã huy động các thành phần kinh tế đặc biệt là DN vào giải quyết câu chuyện nước sạch trong xây dựng NTM. Đây là một vấn đề rất khó trước đây nhưng bây giờ đã trở thành hiện thực.
Hay như ở Hà Nam bây giờ, tất cả những thị trấn, thị tứ, thành phố công tác huy động DN vào trong lĩnh vực sản xuất phân phối nước sạch đã trở thành hiện thực. Mấu chốt của vấn đề là nhà nước phải hỗ trợ ban đầu và đưa ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn để giám sát quá trình tổ chức thực hiện việc đó, Nếu để DN và người dân tự bơi thì rất khó.
Những bài học nào có thể rút ra sau 4 năm thực hiện chương trình xây dựng NTM để năm 2015, chúng ta thực hiện được chương trình này tốt hơn nữa, thưa ông?
Qua 4 năm thực hiện chương trình xây dựng NTM, chúng ta thấy rằng về nhận thức, đây là một chương trình mục tiêu dài hạn, liên tục của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Muốn chương trình thành công, người dân phải nhận thức đây là việc của mình, cho mình; các địa phương phải coi đây là nhiệm vụ chính trị, thường xuyên, liên tục; trung ương có phần hỗ trợ.
Trong quá trình chỉ đạo, Ban Chỉ đạo Chương trình này phải liên tục có chính sách điều chỉnh cho sát, đúng và phù hợp. Ví dụ ở Bộ 19 tiêu chí lúc đầu chúng ta đưa ra, có những chỉ tiêu chưa được rõ, có những chỉ tiêu chưa được sát, có những hướng dẫn chưa được cụ thể. Ban Chỉ đạo và đặc biệt là các bộ, ngành đã tiếp thu ý kiến từ thực tiễn, rất nhanh có chỉnh sửa.
Vấn đề nữa là phải đồng bộ chính sách. Một loạt các nghị định, một loạt các chủ trương, chính sách để tập trung tháo gỡ khó khăn, khơi dậy tiềm lực ở khu vực này và của toàn xã hội. Những chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương đến địa phương và đặc biệt là cấp cơ sở hết sức sáng tạo thì công cuộc xây dựng NTM sẽ thành công.
Trân trọng cảm ơn ông!
Có thể bạn quan tâm

Cách đây khoảng 10 năm, tại xã Khánh Hòa, các hộ gia đình trồng cam chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mặc dù cây cam đã có mặt ở đất Khánh Hòa khá lâu nhưng kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh nhiều gia đình vẫn còn hạn chế. Việc trồng cam thời gian đầu chỉ để có thêm thu nhập cải thiện cuộc sống, còn thu nhập chính của người dân chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp.

Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, diện tích nhãn trồng ở miền Nam vào khoảng 34.000 ha, trong đó có nhiều diện tích đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Nhãn là loại cây có thể xử lý ra trái quanh năm, đáp ứng được số lượng lớn để xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện diện tích này đang bị bệnh chổi rồng làm giảm năng suất và diện tích.

Được đưa vào huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) trồng từ năm 2005, sau 10 năm "bén duyên", giờ đây táo Đài Loan trở thành cây ăn quả có giá trị kinh tế cao đối với các hộ nông dân. Đây cũng là đặc sản của vùng đất Lục Ngạn được người tiêu dùng gần, xa ưa thích.

Cây giảo cổ lam là dược liệu quý, sẵn có trong tự nhiên, với rất nhiều công dụng như bình ổn huyết áp, chống kết tụ tiểu cầu, làm tan huyết khối, ngăn ngừa sơ vữa mạch… Qua phân tích điều kiện tự nhiên, năm 2014, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn) đã thực hiện mô hình trồng thí điểm cây giảo cổ lam tại xã Phương Viên.

Tết, dịp để nhiều người, nhiều nghề kiếm thêm thu nhập. Trong những ngày tết, hoa và rau là hai loại không thể thiếu trong mỗi gia đình. Nhiều nông dân cũng tận dụng cơ hội này để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, thị trường tết năm nào cũng có điều khiến nông dân này mừng nhưng nông dân khác thì lại lo.