Độc đáo nghề rùng cá
Rùng cá là một hình thức kéo lưới cá với sự tham gia của hàng chục ngư dân, chia làm 2 bè, ra cách bờ khoảng 1km rồi rải lưới và quây kéo lên bờ. Hiện nay, ở xã Hải Lý còn 2 xóm (xóm 8 và xóm 9) có ngư dân làm nghề rùng cá.
Ông Bùi Xuân Toán (63 tuổi), xóm 9 là người đã có gần 40 năm trong nghề cho biết: Nghề rùng cá ở xã Hải Lý đã có bề dày truyền thống, nhiều gia đình đã có 3 - 4 đời làm nghề rùng cá.
Thời kỳ đầu, nghề rùng cá được ngư dân địa phương gọi là nghề rùng thưa bởi lưới rùng được đan thô sơ từ sợi gai với nhược điểm mắt lưới thưa, cồng kềnh. Năm 1976, các đội rùng cá bắt đầu sử dụng loại lưới nilon để đánh bắt.
Từ năm 1985, ngư dân Hải Lý đã nghĩ ra cách kết hợp loại lưới mắt thưa (vòng trong) và lưới mắt nhỏ (vòng ngoài) gọi là rùng mau nên năng suất đánh bắt đã tăng đáng kể.
Mỗi đội rùng cá có 2 bè gắn động cơ chở lưới, mỗi bè trị giá từ 5 - 7 triệu đồng được ghép từ những ống luồng già tước vỏ (để tránh bị nứt khi thời tiết nóng), có chiều rộng 2m, dài 10m, mỗi bè chở 10 ngư dân.
Lưới rùng mau (trị giá khoảng 50 triệu đồng), có chiều dài từ 800 - 1.000m, rộng 10m - 20m, có cấu tạo đơn giản, gồm ba bộ phận chính: Cánh lưới, thân lưới và túi lưới; ngoài ra còn có hệ thống dây viền để định hình nền lưới và phục vụ cho quá trình khai thác; que ngáng để định hình đầu cánh lưới; phao, chì để tạo lực nổi, lực chìm. Nghề rùng cá chủ yếu diễn ra vào mùa biển động, khoảng từ tháng 8 đến tháng Giêng âm lịch.
Theo kinh nghiệm của ngư dân, thời điểm này biển thường có sóng lớn, cá ở ngoài khơi bị áp vào bờ nên việc thả lưới gần bờ đem lại hiệu quả cao. Bãi khai thác cho nghề rùng cá phải có đặc điểm tương đối bằng phẳng, đáy không có chướng ngại vật, không làm ảnh hưởng đến giao thông, đi lại trong khu vực khai thác.

Ông Bùi Xuân Toán, xóm 9, xã Hải Lý (Hải Hậu) chuẩn bị các ngư cụ trước khi rùng cá.
Để chuẩn bị cho một buổi rùng cá, từ sáng sớm, những tấm lưới đã được ngư dân mang ra bãi biển chuẩn bị cho mẻ đánh bắt đầu tiên. Những ngư dân có nhiều kinh nghiệm tiến hành xác định độ sâu, dòng chảy, kích thước của khu vực khai thác.
Đến thời điểm “nước án trong ngoài” (Ngoài khơi nước xanh, gần bờ nước đục) thì xếp lưới lên 2 bè theo thứ tự phần nào thả sau xếp trước và đưa bè đến điểm thả lưới. Thả lưới là khâu quan trọng quyết định đến kết quả đánh bắt cá. Quá trình thả lưới phải đảm bảo các yêu cầu nhanh, đều tay để bao vây đàn cá.
Sau khi thả lưới xong, 2 bè giữ 2 đầu lưới chạy tách nhau theo chiều ngang khoảng 800m rồi đi song song vào bờ. Trên bờ, ngư dân bắt đầu thu lưới. Nghề rùng cá có thể tiến hành vào bất kỳ thời gian nào trong ngày nhưng lúc đêm khuya là thời điểm kéo rùng thích hợp nhất bởi thời gian tĩnh, lượng cá nhiều.
Vì vậy, các ngư dân thường ra bãi khai thác sớm, ngoài việc phải ngâm mình liên tục dưới nước lạnh, còn phải thao tác thả, kéo lưới nên đòi hỏi người ngư dân phải có sức khỏe tốt để làm việc. Mỗi mẻ rùng thường thu hoạch từ 1 - 2 tạ cá, chủ yếu là các loại cá cơm, cá dỏng… Ông Nguyễn Vũ Duyên, Trưởng xóm 8, xã Hải Lý cho biết:
Hiện nay, do người dân chuyển sang đánh bắt cá bằng các phương tiện hiện đại nên nghề đánh cá bằng lưới rùng bị mai một, cả xóm 8 hiện chỉ còn một đội rùng cá.
Đội rùng cá còn giữ nghề tới nay chủ yếu do cần nguồn nguyên liệu tại chỗ để phục vụ chế xuất các sản phẩm nước mắm đặc trưng của địa phương. Đặc biệt, ở xã Hải Lý, hằng năm vào ngày rằm tháng 8 âm lịch là thời điểm khởi đầu của mùa rùng cá, như là ngày hội cầu mong cuộc sống của ngư dân yên ấm.
Bởi vậy, vào ngày này, 2 đội rùng cá ở xóm 8 và xóm 9 cùng chia bãi để bủa lưới rùng cá với sự tham gia của đông đảo người dân địa phương.
Ngoài xã Hải Lý, ở các xã Hải Triều, Hải Đông vẫn còn tồn tại nghề rùng cá nhưng quy mô không lớn, hoạt động cầm chừng…
Nghề rùng cá mang dấu ấn sơ khai trong hoạt động khai thác hải sản của ngư dân các xã ven biển. Hiện nay, với sự phát triển của nghề đánh bắt xa bờ với các thiết bị, công nghệ hiện đại, nghề rùng cá dần dần bị mai một.
Tuy nhiên nghề rùng cá vẫn cần được bảo tồn như một nét đẹp văn hóa, thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết cộng đồng trong cuộc sống lao động sản xuất của người dân các xã ven biển của tỉnh.
Có thể bạn quan tâm
Phong trào xây nhà nuôi chim yến đã giảm sốt Ông Trần Thanh Hoàng, Phó Trưởng phòng Kinh tế TX. Gò Công (Tiền Giang) cho biết, thống kê sơ bộ đến thời điểm hiện nay cho thấy, toàn thị xã có 281 căn nhà nuôi chim yến nhưng phong trào xây nhà đã tạm đứng lại.
Trong thời gian gần đây, nhiều vùng nông thôn đã xuất hiện những hộ nông dân phát triển chăn nuôi gà với số lượng hàng 100 con, hàng 1000 con mang lại hiểu quả kinh tế khá cao. Nuôi gà không chỉ cải thiện cuộc sống, bữa ăn hàng ngày mà còn cho thu nhập vài chục triệu đồng đến cả vài trăm triệu đồng mỗi năm tùy theo quy mô.
Đối tượng nuôi mới nhiều triển vọng Sinh sống tại những địa phương miền núi còn nhiều khó khăn, nhưng với ý chí quyết tâm làm giàu, những nông dân miền sơn cước đã xây dựng nhiều mô hình chăn nuôi mang lại hiệu quả kinh tế...
Giúp hộ dân tộc thiểu số nghèo nuôi dê Trạm Khuyến nông huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đang triển khai mô hình hỗ trợ 19 hộ dân tộc thiểu số nghèo tại xã Cấm Sơn và Tân Mộc nuôi dê với kinh phí 100 triệu đồng từ ngân sách huyện.
Truy xuất nguồn gốc thực phẩm cần sức ép từ hai phía Tại Việt Nam, Luật An toàn thực phẩm được xây dựng theo nguyên tắc quản lý toàn bộ chuỗi sản xuất, kinh doanh thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn”. Tuy nhiên, vấn đề truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ sở sản xuất nhỏ, lẻ.