Chính Phủ Indonesia Công Bố Sẽ Nhập Khẩu 500.000 Tấn Gạo Việt Nam

Dồn dập những cơ hội mới cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
Sau việc Philippines liên tiếp ký hợp đồng mua gạo Việt Nam, mới đây Indonesia thông báo sẽ bắt đầu nhập khẩu dần gạo từ tháng này để bổ sung dự trữ bởi sản lượng trong nước năm nay dự báo sẽ giảm, và sẽ mua gạo của Việt Nam.
Chủ tịch Cơ quan Hậu cần Quốc gia Indonesia, Sutarto Alimoeso, cho biết Indonesia đã đảm mua 500.000 tấn gạo Việt Nam, bao gồm loại chất lượng vừa và cao. Số tiền chi cho nhập khẩu gạo Việt Nam vào khoảng 300 tỷ rupiah (25,8 triệu USD) với giá khoảng 6000 rupiah/kg.
“Vụ lúa đầu năm nay thất bát do lũ lụt ở một số khu vực”, ông Sutarto cho biết, thêm rằng thiệt hại bởi lũ lụt trên 116.000 ha là vào khoảng 300.000 tấn gạo.
Bulog thường mua lúa gạo của dân để dự trữ, song lũ lụt đã ảnh hưởng tới sản lượng nên việc thu mua lúa trong dân năm nay không đạt kế hoạch.
Ngoài ra, một số nông dân đã hủy kế hoạch trồng lúa bởi những cảnh báo sớm về việc El Nino có thể ảnh hưởng tới sản lượng.
Bulog đang tiến tới việc nhập khẩu gạo trong năm nay đúng như dự báo của các chuyên gia nông nghiệp – cho rằng sản lượng giảm có thể do vụ gieo trồng muộn vào cuối năm nay cộng với hạn hán kéo dài do El Nino.
Chính phủ đặt mục tiêu hàng năm duy trì 2 triệu tấn gạo trong kho dự trữ của Bulog. Hồi tháng 5, dự trữ ở mức 1,9 triệu tấn, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2012 và 2013 – khi dự trữ trên 2 triệu tấn.
Dự trữ giảm gây lo ngại về khả năng chính phủ khó có thể thực hiện các biện pháp can thiệp ngăn chặn giá tăng khi cần thiết. Giá gạo tăng là nỗi lo lớn của nước này, bởi điều đó thường gây ra lạm phát.
Chính phủ Indonesia đã nhiều lần khẳng định rằng họ sẽ không nhập khẩu gạo trong năm nay bởi dự báo sản lượng cao hơn năm ngoái.
Nhưng kế hoạch nhập khẩu vừa mới nhen nhóm sau khi Cơ quan Thống kê Trung ương (BPS) trong dự báo lần đầu về sản lượng gạo nội địa năm nay – công bố trong tháng 7 này – cho biết sản lượng gạo trong nước (quy lúa) sẽ giảm 1,98% so với năm ngoái, xuống 69,87 triệu tấn, do diện tích đất trồng lúa và năng suất đều sụt giảm.
Để bù đắp vào đó, chính phủ đã chỉ đạo xem xét nhập khẩu khoảng 500.000 tấn.
Tuy nhiên, ông Sutarto từ chối nêu con số tổng thể trong kế hoạch nhập khẩu gạo, nói rằng Bulog sẽ theo dõi chặt chẽ biến động giá gạo và sẽ có hành động phù hợp dựa trên nhu cầu thực tế.
“Nếu đợt mua đầu 500.000 tấn cho thấy đủ, chúng tôi sẽ dừng nhập khẩu, và sẽ có hành động khác nếu nhu cầu vẫn chưa được đáp ứng đủ”, ông cho biết, và thêm rằng “Về cơ bản chúng tôi muốn ngăn chặn ảnh hưởng xấu do thiếu nguồn cung”.
Sutarto nhấn mạnh rằng Bulog sẽ ưu tiên mua lúa gạo trong nước thay vì nhập khẩu nếu nguồn cung của người trồng lúa các địa phương đủ đáp ứng nhu cầu mua của Bulog, mặc dù giá có thể cao hơn giá nhập khẩu.
Có thể bạn quan tâm

Đây là mô hình nằm trong chương trình Đề án về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với sản phẩm thủy sản có nguồn gốc nuôi trồng nhằm mục tiêu tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật giúp người nuôi từng bước tiếp cận với phương thức sản xuất mới từ đó nâng cao trình độ sản xuất, thích hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường.

Cá chày mắt đỏ là một trong những loài cá bản địa sống ở các sông, hồ tự nhiên khu vực phía Bắc, đến nay trở nên quý hiếm do sản lượng ngày càng suy kiệt. Việc nhân giống cá chày mắt đỏ và phổ biến quy trình nhân giống có ý nghĩa lớn trong bảo tồn đa dạng sinh học tự nhiên, đồng thời gợi mở cho các hộ nuôi trồng thủy sản một hướng phát triển kinh tế tiềm năng.

Nằm ở lưu vực sông Sêrêpôk đoạn qua xã Ea Na, huyện Krông Ana, nơi nối liền hai huyện Krông Ana (tỉnh Dak Lak) và huyện Krông Nô (tỉnh Dak Nông) có một trang trại cá diêu hồng, với sản lượng cá xuất ra hàng ngày lên tới 3-5 tấn. Vì nằm trên cồn, biệt lập với đất liền nên người dân quanh vùng đặt tên cho nơi này là "đảo cá".

Sau hơn ba năm triển khai thí điểm, đến nay, mô hình bảo hiểm nông nghiệp, trong đó có nghề nuôi tôm, đang từng bước đi vào đời sống, trở thành tấm lá chắn cho người nông dân trước những rủi ro, biến động trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện lại gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải được tháo gỡ.

Ngoài ra, việc liên kết các hộ dân NTTS còn giúp cho việc điều tiết cống tiêu thoát nước vùng nuôi bảo đảm tính mùa vụ sản xuất, tham gia quản lý giống thủy sản du nhập vào vùng nuôi... đồng thời góp phần nâng cao ý thức của các hộ dân trong quá trình NTTS để đạt năng suất, sản lượng cao.