Chật Chội Dịch Vụ Hậu Cần Trên Biển

Những năm gần đây, số lượng tàu thuyền làm nghề khai thác ở vùng biển xa bờ của Bình Thuận đang ngày càng phát triển. Tuy nhiên, dịch vụ hậu cần trên biển cho ngư dân (tiếp nhiên liệu, lương thực, thực phẩm, thu mua hải sản) vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu thực tế. Điều này ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của những chuyến đánh bắt cũng như ngành thủy sản của địa phương.
Theo ước tính, bình quân mỗi năm sản lượng khai thác hải sản của Bình Thuận đạt khoảng 170.000 – 175.000 tấn các loại. Để nâng cao hiệu quả khai thác, những năm qua ngư dân Bình Thuận ngày càng chú trọng đến việc đầu tư đóng mới tàu thuyền công suất lớn vươn khơi bám biển.
Các tàu thuyền làm nghề dịch vụ hậu cần trên biển cho ngư dân cũng phát triển theo. Ngoài việc tiếp nhiên liệu, hàng hóa, lương thực, thực phẩm cho ngư dân ngay ở ngư trường, đội tàu làm dịch vụ hậu cần còn thực hiện thu mua hải sản của các tàu thuyền khai thác khác.
Anh Đỗ Văn Thanh – chủ vựa cá Bích Thanh (chợ cá Cồn Chà - Cảng cá Phan Thiết) cho biết, trước đây để phục vụ cho việc đánh bắt cá, anh Thanh đã đầu tư đóng mới nhiều tàu thuyền công suất lớn, khai thác ở tuyến khơi và luôn tìm kiếm, mở rộng các ngư trường đánh bắt. Ở vùng khơi xa, tàu thuyền có thể đánh bắt được các loại hải sản lớn có giá trị kinh tế hơn so với gần bờ, lợi nhuận sau những chuyến biển ấy cũng khá cao.
Tuy nhiên, khi khai thác xa bờ anh nhận thấy, ở vùng khơi xa, dịch vụ hậu cần trên biển còn nhiều hạn chế, vì vậy năm 2009 anh đã chuyển 3 tàu sang làm dịch vụ thu mua hải sản của ngư dân. Mỗi năm 3 chiếc tàu này thu mua khoảng 2.000 tấn hải sản các loại của tàu thuyền khai thác trên biển.
Theo ông Huỳnh Quang Huy – Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Bình Thuận: “Hơn 5 năm trở lại đây, đội tàu làm dịch vụ hậu cần trên biển của Bình Thuận đã phát triển khá nhanh. Hiện toàn tỉnh có khoảng 150 tàu thuyền đăng ký làm nghề dịch vụ hậu cần trên biển, trong đó nhiều nhất là Phú Quý với khoảng 100 chiếc.
Về cơ bản, hoạt động của các đội tàu hậu cần khá hiệu quả, giúp cho những chuyến biển của ngư dân có thể kéo dài thêm thời gian. Song, trên thực tế, dịch vụ hậu cần của Bình Thuận chưa đáp ứng được kỳ vọng của ngư dân.
Trong số 150 tàu thuyền đăng ký làm nghề dịch vụ hậu cần thì chỉ một số ít (5 chiếc) là thu mua tất cả các loại hải sản, còn lại chỉ thu mua chuyên về một loại mặt hàng nào đó”. Điều này đã ảnh hưởng đến việc vươn khơi bám biển của ngư dân, bởi những chuyến đánh bắt ngoài khơi xa thường phải kéo dài nhiều ngày, có chuyến kéo dài cả tháng hoặc lâu hơn.
Ông Nguyễn Thanh Bình - một ngư dân ở phường Bình Tân - thị xã La Gi cho biết: Chi phí cho một chuyến biển có khi phải mất hàng trăm triệu đồng, chủ yếu là phí tổn nhiên liệu. Nếu tàu ra vào nhiều lần thì vừa tốn thêm tiền dầu vừa tốn thời gian. Hơn nữa, do ngư dân vẫn chưa tiếp cận được với công nghệ bảo quản hải sản mới nên khi tàu vào bờ, giá trị hàng hóa giảm đi một phần.
Nhằm tháo gỡ khó khăn trên, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho ngư dân như: hỗ trợ nhiên liệu, bảo hiểm thuyền viên, bảo hiểm thân tàu, máy thông tin liên lạc.
Đối với phát triển dịch vụ hậu cần trên biển, thời gian qua Chi cục Thủy sản đã tích cực tìm kiếm đối tác, cá nhân, đơn vị nhằm mở rộng hoạt động dịch vụ này. Đồng thời tuyên truyền, vận động các tàu thuyền thành lập các tổ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong khai thác, thu mua, tiếp nhiên liệu. Ông Huỳnh Quang Huy cho biết thêm, việc làm này đã được Chi cục Thủy sản tiến hành trong nhiều năm nay và thu được hiệu quả khá tốt.
Cùng với đó, với việc Nghị định 67 ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản có hiệu lực, hứa hẹn ngành thủy sản các địa phương, trong đó có đội tàu làm dịch vụ hầu cần sẽ được tạo đà phát triển nhanh hơn.
Có thể bạn quan tâm

Chăn nuôi phát triển đồng nghĩa với việc lượng chất thải từ chăn nuôi thải ra môi trường ngày càng nhiều. Hiện nay, việc ứng dụng xây hầm biogas vào chăn nuôi nhằm xử lý triệt để nguồn chất thải, tiết kiệm chi phí tiền mua khí đốt, góp phần tích cực giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đặc biệt khu vực đông dân cư đang được một số địa phương thực hiện, mang lại hiệu quả.

Ông Nguyễn Quang Vinh Bình, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (NLTS) tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, nạn đánh bắt mang tính hủy diệt NLTS vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai diễn ra khá phức tạp. Trên 50 vụ vi phạm được phát hiện, xử lý từ đầu năm đến nay, tịch thu và tiêu hủy 250 cheo lừ xếp mắt lưới nhỏ, 50 bộ kích điện, xử phạt hành chính trên 140 triệu đồng là con số đáng báo động.

Diện tích chè của Hà Giang hiện có 20.305 ha, diện tích cho thu hoạch 16.932 ha, sản lượng chè búp tươi ước đạt trên 57.598 tấn. Ngành chè đã và đang mang lại đời sống, thu nhập cho hàng chục NGHÌN đồng bào. Tuy nhiên, khảo sát thực tiễn cho thấy đời sống của người làm chè hiện nay vẫn còn thấp, các mối liên kết còn bấp bênh. Rất cần một “cú hích” để ngành chè phát triển đúng với tiềm năng.

Tại hội nghị, tiến sỹ Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định: Nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi nhuyễn thể nói riêng đạt hiệu quả kinh tế cao phụ thuộc vào nguồn giống tốt và khoa học kỹ thuật tốt. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay của các tỉnh phía Bắc trong nuôi nhuyễn thể là nguồn giống trong nước sản xuất ra chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu con giống của ngư dân, phần còn lại phải nhập giống chủ yếu từ Trung Quốc nên khó kiểm soát chất lượng con giống.

Hiện giá ca cao tươi bán tại vườn đạt hơn 5.000 đồng/kg, hạt khô có giá 56.000 đồng/kg, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo Sở NNPTNT Đồng Nai, diện tích cây ca cao cho thu hoạch trong tỉnh hiện khoảng 1.000ha, năng suất bình quân khoảng 10 tấn hạt tươi/ha, tăng 20% so với cùng kỳ.