Cá Tra Việt Nam Bị Đánh Úp

Lý do duy nhất để Bộ Thương mại Mỹ (DOC) thay đổi hẳn mức thuế chống bán phá giá (CBPG) philê cá tra đông lạnh của Việt Nam trong quyết định chính thức của đợt rà soát hành chính lần thứ 8 (POR8) giai đoạn 1/8/2010 - 31/7/2011, là việc chọn Inđônêxia làm nước thay thế thay vì Bănglađét đã chọn khi đưa ra mức thuế sơ bộ.
Vì không công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, nên khi xác định mức thuế CBPG, DOC chọn một nước khác có nền kinh tế thị trường, với những điều kiện gần tương đương với Việt Nam làm “nước thay thế” để lấy số liệu tính chi phí sản xuất và giá bán “bình thường”. Trong các đợt xem xét hành chính trước đây, một số nước (như Bănglađét, Ấn Độ, Inđônêxia, Nicaragoa, Pakistan, Philippin) đã được đưa ra phân tích, và cuối cùng Bănglađét được cho là lựa chọn thích hợp nhất làm nước thay thế. Với điều kiện sản xuất gần tương đồng, giá thành sản xuất ở Bănglađét không khác mấy với Việt Nam, vì vậy mức thuế CBPG được tính ra tương đối thấp, thậm chí bằng 0.
Kết quả đó không làm phía nguyên đơn – Hiệp hội Chủ trại nuôi Cá nheo Mỹ (CFA) - hài lòng. Họ đã nhiều lần yêu cầu DOC thay đổi nước thay thế và năm ngoái đã suýt thành công ở POR7 (giai đoạn 1/8/2009-31/7/2010), khi Philipin được dự định chọn làm nước thay thế và mức thuế sơ bộ đã ấn định lên đến 0,56 USD/kg. Lần đó, chúng ta đã phản kháng thành công, buộc DOC phải trở lại với Bănglađét và mức thuế chỉ còn 0 - 0,03 USD/kg trong quyết định cuối cùng.
Rút kinh nghiệm, trong quyết định sơ bộ cho POR8 (giai đoạn 1/8/2010 - 31/5/2011) công bố ngày 12/9/2012, DOC vẫn đưa ra dự định lựa chọn Bănglađét và đưa ra mức thuế sơ bộ rất thấp – bằng 0. Nhưng đến quyết định chính thức ngày 14/3/2013, nước thay thế lại là Inđônêxia với lý giải hết sức hàm hồ. Rõ ràng, đây là hành động cố tình “đánh úp”, khiến các DN Việt Nam không kịp trở tay, vì khác với quyết định sơ bộ, phía bị đơn chỉ có 5 ngày để phản ứng.
Tuy chỉ phải chịu mức thuế thấp nhất, nhưng Công ty CP Vĩnh Hoàn lại bị tổn thất rất lớn, bởi trong POR6 và POR7 công ty này đã có mức thuế bằng 0. Nếu có mức thuế 0 thêm lần này (như trong quyết định sơ bộ), Vĩnh Hoàn đủ điều kiện để có thể thoát hẳn khỏi vụ kiện. Với mức 0,19 USD/kg, cao hơn cả mức de minimis (mức thuế tối thiểu, bằng 0,5% giá bán bình thường), khiến công ty Vĩnh Hoàn lại phải trở về vạch xuất phát.
Nhìn lại 10 năm qua, kể từ khi bắt đầu vụ kiện CBPG này, ngoài những vấn đề nội tại, cá tra Việt Nam đã phải chống chọi với không biết bao nhiêu trở lực đến từ bên ngoài. Ở Mỹ, CFA liên tục tìm cách chống lại, thậm chí tác động để sửa đổi Luật Nông trại 2008, định chuyển cá tra đặt dưới quyền kiểm soát của Bộ Nông nghiệp Mỹ thay vì Cục Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) như các loại thủy sản khác. Ở châu Âu và một số nơi khác, không ngừng rộ lên những thông tin bôi nhọ cá tra.
XK cá tra năm 2012 đã chững lại, giá trị XK chỉ đạt hơn 1,7 tỷ USD, thấp hơn năm 2011. Đòn mới này từ phía Mỹ chắc chắn sẽ còn gây thêm nhiều thiệt hại. Nhưng liệu những người sản xuất cá tra Việt Nam có chịu “bó tay”? So với 10 năm trước, ngành cá tra Việt Nam đã trưởng thành nhiều, đã có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh pháp lý quốc tế. Cá tra cũng đã đến với nhiều thị trường khác. Chúng ta còn nỗ lực để có cá tra đạt chứng nhận Global G.A.P, BAP, ASC,… và được xếp vào loại sản phẩm bền vững, khuyến khích tiêu dùng.
Cuộc đấu trên thương trường cũng khó khăn, gian khổ không kém trên chiến trường. Phải chăng, ta vẫn cần phát huy bài học “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!”.
Có thể bạn quan tâm

Nhằm khuyến khích bà con nông dân phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định và bền vững, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện Yên Sơn thực hiện mô hình nuôi gà thả vườn an toàn sinh học tại xã Mỹ Bằng (Yên Sơn). Đến nay bước đầu mô hình đã đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực.

Trong những năm qua, nông dân trên địa bàn huyện Phú Bình (Thái Nguyên) đã áp dụng tiến bộ khoa học vào chăn nuôi bò vỗ béo nhưng với phương thức đơn giản như nuôi từ lúc bò mẹ đẻ ra đến lúc thịt, một số khác thì mua bò, bê về nuôi chăn thả, tận dụng nguồn cỏ tự nhiên và phụ phẩm của ngành trồng trọt, có bổ sung thức ăn tinh nhưng với một phần nhỏ, chủ yếu là ngô, cám gạo cho nên chưa khai thác hết tiềm năng tăng trọng của bò khi đưa vào vỗ béo. Hơn nữa, thời gian nuôi còn kéo dài nên hiệu quả chưa cao.

Tiểu Cần (Trà Vinh) là huyện có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là cây lúa, với diện tích đất tự nhiên trên 22.000ha, trong đó đất nông nghiệp có hơn 19.000ha, riêng đất trồng lúa trên 13.400ha. Ngoài ra trên địa bàn còn có một số diện tích đất giồng cát tập trung ở các xã Hiếu Tử, Hiếu Trung, Phú Cần và Long Thới. Nhân dân sinh sống trên đất giồng cát theo tập quán lâu đời thường tr
Bà con nông dân đánh giá cao cây trồng biến đổi gen nhờ những đặc tính vượt trội do đó cần sớm được triển khai rộng rãi.

Đến năm 2020, Hà Nội sẽ duy trì được khoảng 80% mức tự túc lương thực, trong đó, vùng nông thôn đạt 100%, vùng nội thành đạt trên 60%.