Bệnh Lây Từ Tôm Chân Trắng Sang Tôm Sú

Bệnh do virus gây hoại tử cơ (infectious myonecrosis virus - IMNV) trên tôm chân trắng Litopenaeus vannamei có biểu hiện là đục phần cơ đuôi lan ra toàn thân (ảnh). Tôm mắc bệnh này hoạt động lờ đờ rồi chết. Tỉ lệ tôm chết có thể lên đến 40-60% trong ao nhiễm. Sự phổ biến của bệnh này ở Brazil gây ra tổn thất đáng kể. Chỉ riêng năm 2003 Brazil đã thiệt hại 20 triệu USD.
Những triệu chứng giống như bệnh do IMNV cũng có thể thấy khi tôm gặp những yếu tố môi trường không thuận lợi như thiếu dưỡng khí, mật độ nuôi cao hoặc những thay đổi đột ngột của nhiệt độ và độ mặn.
Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây của nhóm Tang & ctv (2007) cho thấy bệnh do IMNV từ tôm chân trắng có thể gây cho tôm sú Penaeus monodon, và một loài tôm chân trắng khác là Litopenaeus stylirostris. Trong ba loài thì tôm chân trắng, bệnh chủ tự nhiên của IMNV, dễ cảm nhiễm và có tỉ lệ chết cao nhất.
Có thể bạn quan tâm

Cua bột sản xuất từ các trại sản xuất giống có kích thước nhỏ được gọi là cua hạt tiêu. Cua bột với kích thước nhỏ nên mua về thả nuôi sẽ có tỷ lệ hao hụt cao. Để hạn chế hao hụt, người dân khi mua cua bột về nuôi nên qua một giai đoạn ương cua trong gièo.

Những năm qua, mô hình luân canh nuôi cá bống kèo với tôm nước lợ thâm canh hay bán thâm canh để cắt mầm bệnh trong nuôi tôm là không mới. Tuy nhiên, bên cạnh một số hộ nuôi cá kèo mang lại hiệu quả cao thì còn nhiều hộ nuôi thất bại do không am tường kỹ thuật nuôi đối tượng này.

Cá lăng chấm là loài cá sông có giá trị kinh tế cao, ngoài kỹ thuật nuôi trong lồng bè và ao nước tĩnh thì nuôi cá trong ao nước chảy cũng là một phương thức nuôi hiệu quả.

Mặc dù, tôm càng xanh là đối tượng thủy sản nuôi không đem lại lợi nhuận cao như đối với tôm nuôi nước lợ nhưng ít rủi ro dịch bệnh và có hiệu quả ổn định. Do đó, ở những vùng có điều kiện nuôi đối tượng này hay ở những ao nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng có thể thả nuôi luân canh với tôm càng xanh ở thời điểm nước ngọt để gia tăng lợi nhuận trên cùng diện tích ao nuôi và nhất là cắt mầm bệnh tôm nuôi nước lợ ở vụ nuôi sau.

Dù các đặc điểm của hậu ấu trùng / tôm giống / tôm post đã thay đổi theo thời gian nhưng vẫn chưa có phương pháp chuẩn để sử dụng nhằm xác định kích cỡ. Thông thường, “kích cỡ” của hậu ấu trùng được tính theo ngày tuổi của chúng sau khi qua giai đoạn biến thái.