Yên Thế Xây Dựng Thương Hiệu Chè Sạch

Chè là một trong 6 cây trồng chủ lực nằm trong định hướng phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng của huyện Yên Thế (Bắc Giang). Những năm gần đây, huyện đã từng bước mở rộng diện tích, chú trọng xây dựng thương hiệu “chè sạch”.
Tại bản Ven, xã Xuân Lương, những đồi chè xanh mướt ngày càng được mở rộng. Bản Ven với hơn 80% là người dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Cao Lan đã quen với việc canh tác theo kiểu "tự cung tự cấp”. Nhưng khoảng 4 - 5 năm trở lại đây được chính quyền các cấp quan tâm vận động bà con chuyển đổi cây trồng và phương thức canh tác truyền thống sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa, trong đó chọn chè làm cây trồng chủ lực.
Được Nhà nước hỗ trợ giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cũng như thấy rõ hiệu quả kinh tế từ cây chè nên đến nay gần 100% hộ trong bản đã gắn bó với cây trồng này. Hộ trồng nhiều 1-2 mẫu, hộ ít cũng vài sào, năng suất chè đạt 6 tấn/ha/năm.
Giá chè cao và tương đối ổn định nên người dân trong bản có thu nhập khá. Bình quân mỗi hộ thu khoảng 4 - 5 triệu đồng/ tháng. Nhiều hộ đã thoát nghèo nhờ cây chè.
Được biết, Xuân Lương có 209 ha chè, chiếm 50% diện tích trồng chè của cả huyện, thu hút hơn 1.400 hộ trồng và 800 hộ thu mua, chế biến. Sau gần 3 năm, huyện ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình nhân giống vô tính, trồng thâm canh cải tạo nương chè già cỗi bằng một số giống chè mới và chế biến chè an toàn.
Đến nay, diện tích chè đã được mở rộng, từ hơn 300 ha năm 2010 lên 423 ha năm 2013, đặc biệt năng suất chè ngày một nâng cao. Do có những lợi thế về điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, chè Xuân Lương thơm và "được nước”, nên tiêu thụ thuận lợi
Để phát huy hiệu quả cây chè, UBND huyện Yên Thế định hướng mở rộng diện tích trồng chè ở 7 xã khác là: Canh Nậu, Đồng Vương, Đồng Tiến, Tam Tiến, Hồng Kỳ, Đồng Tâm và Phồn Xương. Thực hiện kế hoạch này, huyện chỉ đạo các xã khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng chè.
Các cơ quan chuyên môn tích cực hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc cây chè theo quy trình sản xuất bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; đồng thời trích ngân sách hỗ trợ nông dân một phần giá giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy chế biến chè, bao tiêu sản phẩm, nỗ lực chuẩn bị cho việc đăng ký nhãn hiệu bản quyền chè sạch Xuân Lương vào năm 2014.
Có thể bạn quan tâm

Trong nhiều năm trở lại đây, nghề đánh bắt, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản đang gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và chi phí đầu vào tăng cao, thị trường cạnh tranh gay gắt. Tuy vậy, ngành thủy sản vẫn đạt và vượt kế hoạch đề ra. Điều đó cho thấy, ngoài những nỗ lực tự thân của ngư dân, các chính sách hỗ trợ kịp thời của Nhà nước đã tiếp sức cho ngư dân yên tâm bám biển.

Gần 7 năm nuôi nhím, anh Nguyễn Bá Hồng (tổ dân phố 7, phường Tân Lập, TP. Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk) giờ đây đã có trại nuôi nhím với quy mô gần 100 con và cả đàn chồn nhung đen 300 con.

Mục đích của việc xây dựng quỹ là để hỗ trợ cho ngư dân làm nghề khai thác thủy sản trên biển, các con tàu làm công tác dịch vụ hậu cần trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa, gặp rủi ro thiệt hại do thiên tai, do tàu thuyền nước ngoài bắt giữ, cướp phá tài sản...

Giá nghêu giống tại khu vực biển Tân Thành (huyện Gò Công, Tiền Giang) đang tăng cao, loại kích cỡ 600 – 800 ngàn con/kg được các thương lái thu mua với giá 16 - 18 đồng/con (khoảng 10 - 15 triệu đồng/kg), tăng 5 - 7 đồng/con (tương đương 3 - 5 triệu đồng/kg) so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong môi trường tự nhiên cá cũng rất dễ bị vi khuẩn tấn công. Để hạn chế sự gây hại này, ông Công chế ra một loại hỗn hợp khá đặc biệt, đó là nắn một cục đất sét độ khoảng bằng nắm tay có trộn với vôi bột, muối, dầu mazut. Sau đó nhét 1 gói Soffell diệt muỗi có cắt miệng sẵn đặt ở giữa và đưa vào trong túi nhựa có vài lỗ nhỏ xung quanh, mỗi lồng bè có thể treo từ 5 - 7 túi