Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Xuất khẩu tôm và bài toán cung cầu lợi nhuận

Xuất khẩu tôm và bài toán cung cầu lợi nhuận
Ngày đăng: 13/06/2015

Kết quả XK và mức tăng trưởng XK khả quan trong năm 2014 có sự đóng góp lớn của nguồn tôm nuôi trong nước nhưng có tham gia không nhỏ của tôm nguyên liệu NK.

Năm 2014, NK tôm nguyên liệu của Việt Nam đạt 476 triệu USD. Ước tính doanh thu từ tôm nguyên liệu NK đạt 700 triệu USD, chiếm 18% tổng doanh thu từ tôm XK của Việt Nam trong năm 2014.

NK tôm nguyên liệu phục vụ chế biến XK của Việt Nam liên tục tăng từ 50 triệu USD trong năm 2010 lên 476 triệu USD năm 2014, tăng 852%. Chỉ trong quý đầu năm 2015, NK tôm nguyên liệu vào Việt Nam đã đạt 106 triệu USD. Ấn Độ là nhà cung cấp tôm nguyên liệu chính cho Việt Nam từ năm 2011 đến nay. Năm 2014, NK tôm nguyên liệu từ Ấn Độ chiếm 68,8% tổng NK tôm của Việt Nam.

Bất kỳ một DN kinh doanh bất cứ hàng hóa nào cũng phải tính đến bài toán cung – cầu – lợi nhuận và các DN chế biến XK tôm cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu này. Có những thời điểm, DN nhận được nhiều đơn đặt hàng từ các thị trường NK, trong khi chưa vào vụ thu hoạch ở địa phương hoặc kích cỡ tôm mà DN cần lại không sẵn có, hoặc giá, chất lượng không đáp ứng nhu cầu của các DN. Khi đó, các DN sẽ phải cân nhắc các yếu tố cung – cầu – lợi nhuận, và NK nguyên liệu là một giải pháp.

Thông thường các nhà sản xuất sẽ tìm kiếm nguồn nguyên liệu từ những nguồn cung đáp ứng được yêu cầu của họ về giá cả và chất lượng. Trong đó, giá nguyên liệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận của DN. Ấn Độ được các DN chọn là nhà cung cấp tôm số 1 do nguồn cung ổn định với giá cả phải chăng, đáp ứng được yêu cầu về kích cỡ và chất lượng.

Giá thành tôm nuôi ở Việt Nam trong mấy năm qua cao hơn so với một số nước đối thủ, đặc biệt là Ấn Độ. Nên nhiều DN đã NK tôm nguyên liệu từ những khu vực này để có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng, duy trì lợi nhuận và năng lực cạnh tranh và ổn định công ăn việc làm cho người lao động.

Giá thành tôm nuôi của Việt Nam cao hơn Ấn Độ do những bất cập về quản lý thức ăn, con giống, thuốc thú y…Khâu sản xuất và phân phối các yếu tố đầu vào này chưa tạo điều kiện tốt nhất cho người nuôi. Trong khi ở Ấn Độ, nguyên liệu sản xuất thức ăn (đậu nành, ngô…) hầu như tại chỗ trong khi Việt Nam chỉ chủ động được 30% nguồn nguyên liệu này.

Ấn Độ NK tôm giống từ Mỹ có khả năng kháng bệnh cao. Nước này cũng mạnh dạn đầu tư vào các ao nuôi, cơ sở hạ tầng chế biến thức ăn và hệ thống phân phối thức ăn thuận lợi nhất cho người nuôi. Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã thực hiện được một cuộc cách mạnh trong ngành tôm với số lượng tôm giống từ 7 tỷ năm 2010 lên 20 tỷ năm 2014, tăng 186%; công suất sản xuất thức ăn từ 390.000 tấn năm 2010 lên 1,33 triệu tấn năm 2014, tăng 241%; thức ăn nuôi tôm tăng 110% từ 272.000 tấn năm 2010 và 572.000 tấn năm 2014.

Ngay cả ở Thái Lan, một nước sản xuất tôm đối thủ của Việt Nam, các DN tôm Thái Lan cũng phải NK nguyên liệu để đáp ứng công suất chế biến. Năm 2014, nước này NK 124 triệu USD tôm nguyên liệu trong đó NK từ Ấn Độ chiếm 25%. Năm 2015, các nhà chế biến Thái Lan vẫn tiếp tục NK tôm nguyên liệu từ Ấn Độ để bù đắp sản lượng giảm. Dự kiến nước này cần NK khoảng 350.000 tấn tôm nguyên liệu nữa mới có thể đáp ứng tổng công suất chế biến của ngành.

Qua đó, có thể thấy NK nguyên liệu để chế biến XK là một xu hướng bình thường của các DN thủy sản trong đó có DN tôm. Tất nhiên DN tôm cũng mong muốn có nguồn nguyên liệu trong nước ổn định, giá hợp lý và chất lượng tốt để đáp ứng tốt các yếu tố cung- cầu – lợi nhuận và không phải phụ thuộc vào nguồn NK. Vấn đề là làm thế nào để giảm giá thành tôm nuôi để sản phẩm tôm Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác trên thị trường thế giới?.


Có thể bạn quan tâm

Chủ Động Sản Xuất Vụ Đông Xuân Chủ Động Sản Xuất Vụ Đông Xuân

Ước tổng lượng mưa toàn vụ đông xuân 2014 – 2015 trên địa bàn tỉnh có khả năng chỉ đạt từ 65 – 75% so với những năm trước. Mưa ít khiến dung tích nhiều hồ chứa lớn trong tỉnh đạt thấp nên nguy cơ hạn hán xảy ra ngay trong vụ đông xuân tới rất lớn.

15/12/2014
Vốn Cho Hộ Chính Sách Vốn Cho Hộ Chính Sách

Sau hơn 10 năm được tách ra hoạt động độc lập từ Ngân hàng phục vụ người nghèo, đến nay, tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên đã lên tới trên 2,1 nghìn tỷ đồng, với hơn 112 nghìn khách hàng còn dư nợ. Tuy nhiên, trong tổng nguồn vốn này, mới có hơn 1% là của ngân sách địa phương chuyển sang….

15/12/2014
Sản Lượng Chè Búp Tươi Chưa Đạt Kế Hoạch Đề Ra Sản Lượng Chè Búp Tươi Chưa Đạt Kế Hoạch Đề Ra

Đến thời điểm này, toàn tỉnh đã có xấp xỉ 21 nghìn ha chè, trong đó diện chè thành phẩm chiếm khoảng gần 18 nghìn ha, tăng gần 1 nghìn ha so với năm 2013. Tuy nhiên, năm nay, sản lượng chè búp tươi chỉ đạt khoảng 193 nghìn tấn, thấp hơn 7 nghìn tấn so với kế hoạch đề ra.

15/12/2014
Đón Bằng Công Nhận Làng Nghề Chè Truyền Thống Đón Bằng Công Nhận Làng Nghề Chè Truyền Thống

Với truyền thống cần cù, chịu khó, bà con nhân dân các thôn đã tích cực phát triển kinh tế, đưa cây chè là một trong những cây chủ lực trong phát triển kinh tế. Diện tích chè của 3 xóm là 56 ha, trong đó có khoảng 40% diện tích đã dược chuyển đổi sang trồng các giống chè cành cho năng suất, chất lượng cao như: LDP1, PH1, Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên.

15/12/2014
Huyện Thạch Thành Có Hơn 400 Hộ Nuôi Ong Mật Đạt Hiệu Quả Kinh Tế Cao Huyện Thạch Thành Có Hơn 400 Hộ Nuôi Ong Mật Đạt Hiệu Quả Kinh Tế Cao

Vì là huyện miền núi, nên đàn ong mật tận dụng được nguồn mật từ phấn hoa của các loại cây lâm sản và cây ăn quả dồi dào, đa dạng trên địa bàn, bởi vậy đàn ong mật phát triển tốt, cho lượng mật cao, chất lượng tốt. Theo tính toán của các hộ dân, nếu nuôi 100 đàn ong lấy mật, mỗi năm có thể thu về 60-80 triệu đồng.

15/12/2014