Người Nông Dân Và Cây Lúa Hôm Nay

“Được mùa rớt giá” cứ lập đi lập lại, nên dù là nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới mà nông dân trồng lúa vẫn nghèo. Nghịch lý đó ai cũng thấy, nhưng không biết kéo dài đến bao giờ?
Lâu nay ở An Giang cũng như cả nước, đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp “phát triển nông nghiệp bền vững” trước mắt có, lâu dài có, nhưng như liều thuốc đặc trị không đúng bệnh và không đủ mạnh, nên tình trạng trên bao nhiêu năm vẫn vậy!
Người nông dân – “Đội quân chủ lực” trong các cuộc kháng chiến cứu nước năm xưa, đã từng chịu đựng bao hy sinh, mất mát, nhưng đến thời bình họ vẫn nghèo khó, cơ cực “một nắng, hai sương” làm ra hạt lúa để đáp ứng nhu cầu của xã hội và hơn thế nữa, còn làm giàu cho đất nước, làm giàu các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo lớn nhỏ. Chính phủ có chủ trương giúp nông dân được “lãi 30 phần trăm” nhưng giải pháp nào để bảo đảm cái “30 phần trăm" đó thì không rõ ràng!
Trái lại, có năm khi thấy giá lúa lên cao một chút, thì vì lý do “bảo đảm an ninh lương thực”, sợ người nghèo không phải nông dân mua gạo ăn giá cao, sợ các mặt hàng tiêu dùng khác tăng giá theo… Lập tức, bằng những biện pháp hữu hiệu kéo giá tụt xuống ngay, tội nghiệp người nông dân hụt hẫng, chới với! Trong khi đó, giá vật tư và các chi phí sản xuất khác tăng chóng mặt.
Hiện nay, Chính phủ chủ trương chi ngân sách hàng ngàn tỷ đồng, tài trợ 100 phần trăm lãi suất cho các doanh nghiệp vay mua lúa hè thu tạm trữ, nhưng thời điểm triển khai thu mua chậm so với lúa thu hoạch, giá lúa chỉ nhích lên chút ít, chẳng là gì so với cái thua thiệt của người nông dân trong vụ lúa này.
Theo một doanh nghiệp xuất khẩu gạo, tại sao Chính phủ lại chủ trương mua lúa tạm trữ nhằm giúp nông dân tiêu thụ lúa với giá có lãi 30 phần trăm, mà không dùng số tiền đó trợ giá cho nông dân như Thái Lan, hoặc cho nông dân vay lãi suất bằng không, với thủ tục đơn giản để họ có tiền trả nợ vật tư, nợ ngân hàng và những món nợ linh tinh khác, giữ lúa chờ giá lên tốt sẽ bán.
Khoản tiền này Chính phủ “rót” cho doanh nghiệp, chẳng khác “gánh đất đổ gò mối”, doanh nghiệp mua lúa qua thương lái theo giá thị trường “thuận mua vừa bán”, có doanh nghiệp nào tự đẩy giá mua lúa lên cao có lợi cho thương lái và nông dân, chấp nhận rủi ro khi bán ra? Chưa nói đến sẵn nguồn tiền này, doanh nghiệp nào đó trích ra sử dụng vào mục đích khác có lợi tức thì, liệu các ngành chức năng có đủ sức kiểm tra, giám sát?
Bài báo Giảm 2 triệu héc-ta lúa, nông dân sẽ giàu lên trên Tuổi Trẻ, ghi ý kiến ông Nguyễn Công Tạn, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. Ông Nguyễn Công Tạn cho rằng: “Việc giữ 7 triệu héc-ta đất trồng lúa và cứ “ôm” mãi thành tích cường quốc xuất khẩu lúa gạo đang là vấn đề mâu thuẫn nhất”. Ông đề nghị: “Đổi mới tư duy làm nông nghiệp, giảm bớt 2 triệu héc-ta lúa để dành đất nuôi, trồng cây, con khác”.
Ông Nguyễn Công Tạn phân tích thực trạng và căn nguyên tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trong nước hiện nay, phản ánh quy luật cung - cầu trong sản xuất và kinh doanh lúa gạo, ông nói: “… Tư duy của ta hiện nay về nông nghiệp vẫn còn ảnh hưởng tư duy một thời từ lâu là cứ tập trung làm lúa gạo. Nhưng mãi làm lúa gạo đến nay lúa gạo lại thừa, xuất khẩu thì hiệu quả không cao. Hiện nay, nhiều nước trước kia nhập khẩu gạo đã tự túc được, một số nước còn nghèo đói thì không có tiền để mua. Sản xuất lúa của Ấn Độ đã vọt lên, Campuchia vọt lên, sắp tới Myanmar sẽ vọt lên… thì chúng ta xuất đi đâu”.
Ông nói như đinh đóng cột rằng: “… Giảm bớt 2 triệu héc-ta trồng lúa thì dứt khoát xã hội Việt Nam nhìn vào lúa không như bây giờ nữa, giá gạo sẽ lên gấp rưỡi, gấp đôi bây giờ. Lúc ấy, nông dân mới có lãi thật, mới được hưởng đúng giá trị do mình làm ra…”.
Việc chuyển đổi 2 triệu héc-ta đất lúa sang nuôi trồng cây con khác như ý kiến đề xuất của ông Nguyễn Công Tạn, không hề đơn giản, khó khăn lớn nhất là vướng rào cản tập quán, thói quen của người nông dân. Nhưng nếu thấy đó là việc cần làm để phát triển nền nông nghiệp nước nhà bền vững thì nhất quyết làm, bằng những biện pháp tổng hợp, chủ yếu là kinh tế và có sự “liên kết 4 nhà”, “liên kết vùng”…, dần dần người nông dân thấy được lợi ích việc chuyển đổi họ sẽ làm có kết quả.
Có thể bạn quan tâm

Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp (DVNN) Tân Tiến, xã Phú Đức, huyện Tam Nông vừa tổ chức Đại hội thành viên bất thường chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 và thực hiện bán cổ phần. Đây là Đại hội điểm của huyện và là HTX thứ hai của huyện Tam Nông (sau HTX Tân Cường, xã Phú Cường) tiến hành việc chuyển đổi.

Với giá bán như hiện nay, trung bình 1 tấn cá lóc thương phẩm, người nuôi sẽ có lãi trên-dưới 8 triệu đồng; người nuôi tôm càng xanh, lươn và cá tra cũng có lãi... Đặc biệt, trong tháng 12/2014, Công ty cổ phần Thủy sản IV đặt trạm thu mua tại xã Phú Thành B, đã thu mua được hơn 10,7 tấn tôm càng xanh các loại.

Theo thương lái, giá quýt đường tăng trở lại là do quýt đường ở các nơi như An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh... hết mùa. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ quýt đường lớn nhất là TP.Hồ Chí Minh đang có dấu hiệu tiêu thụ mạnh trở lại. Theo dự đoán từ đây đến Tết Nguyên đán giá quýt có thể sẽ tiếp tục tăng.

Chủ động tìm tòi, sáng tạo và chắt lọc những mô hình sản xuất mới lạ để có thể tạo ra các sản phẩm độc đáo thích ứng nhu cầu thị trường nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình, chính là sự năng động thường thấy đối với không ít nhà nông ở Hậu Giang ngày nay.

Vai trò không thể phủ nhận của phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp là mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân và cây trồng, giảm bớt sự ô nhiễm môi trường, bảo vệ đất, nguồn nước, làm cho lương thực, thực phẩm được an toàn. Những ưu điểm này đã được các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng để đem về sức sống cho đồng ruộng, sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững.