Xây dựng thương hiệu hồng ăn trái Đà Lạt

Hồng ăn trái có tên khoa học là Diosspyros Kaki L. thuộc họ thị Ebéaceae, dòng cây ôn đới Á Đông hay cận nhiệt đới. Sinh trưởng với điều kiện thời tiết, khí hậu quanh năm mát mẻ của Đà Lạt, cây hồng ăn trái thường phát triển chiều cao từ 7 - 8m, dáng cây mọc thẳng, tán phủ rộng, gồm các tên gọi như hình dáng từng loại trái cây như: hồng bom (từ 110 - 120 gram/trái), hồng chén (từ 90-l00 gram/trái), hồng vuông (từ 80 - 90 gram/trái), hồng trứng (từ 70 - 80 gram/trái)...
Tất cả các loại hồng ăn trái Đà Lạt khi chín có màu vàng, hồng, đỏ, không hạt hoặc ít hạt, hương vị ngọt lịm, dẻo thơm đặc trưng riêng biệt với các loại trái cây khác. Theo Phòng Kinh tế Đà Lạt, từ những năm giữa thập niên 90 của thế kỷ trước, diện tích canh tác hồng ăn trái Đà Lạt ổn định khoảng 900ha, trong đó 85% diện tích trồng xen canh trong vườn cây cà phê và các cây trồng khác, 15% diện tích trồng thuần, đạt tổng sản lượng hàng năm khoảng 6.500 tấn trái tươi, cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh Lâm Đồng.
Đến giai đoạn năm 2000 - 2010, diện tích hồng ăn trái Đà Lạt giảm dần xuống còn 600ha, sản lượng trái tươi giảm xuống còn 4.500 tấn, chiếm tỷ lệ 10% sản lượng được đưa vào sấy khô bằng than đốt theo phương pháp thủ công truyền thống, 90% sản lượng bán tươi cho thị trường nội địa.
Trong năm 2010, hồng ăn trái Đà Lạt được cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tiến hành xây dựng, chuyển giao một số mô hình kỹ thuật chăm sóc tỉa cành, bón phân, lai tạo giống mới có năng suất và chất lượng cao hơn, đồng thời phổ biến công nghệ mới về chế biến hồng sấy khô đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu. Đến ngày 27/10/2012, hồng ăn trái Đà Lạt được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập là 1 trong 50 loại trái cây đặc sản của Việt Nam. Từ đó đến nay, hồng ăn trái Đà Lạt vẫn giữ ổn định diện tích 600ha, tổng sản lượng 4.500 tấn trái tươi/năm.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm trái hồng tươi (khoảng 4.050 tấn) vẫn chiếm phần lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh miền Trung. Còn lại 450 tấn trái tươi được đưa vào chế biến sản phẩm hồng sấy khô bằng công nghệ Nhật Bản và bằng than đốt thủ công của hộ gia đình, giá bán ra thị trường cao hơn hồng tươi khoảng từ 12 - 15 lần. Vài năm gần đây, Đà Lạt ước đạt giá trị sản xuất 2 sản phẩm hồng tươi và hồng khô trên dưới 25 tỷ đồng/năm, giải quyết việc làm cho 1.200 lao động trực tiếp và gián tiếp.
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh sản xuất hồng ăn trái Đà Lạt hiện đang bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là phổ biến diện tích vẫn sản xuất xen canh với nhiều cây trồng khác, các biện pháp canh tác chủ yếu còn dựa theo những kinh nghiệm của người nông dân, chưa được tác động sâu rộng từ những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch, dẫn đến sản phẩm bán ra thị trường không đạt độ đồng đều về hình dáng, chất lượng, từ đó gây nhiều khó khăn trong quá trình quảng bá, xúc tiến thương mại.
Trong khi đó, thị trường tiêu thụ hồng ăn trái Đà Lạt hầu hết thông qua các đầu mối thương lái thu mua quy mô nhỏ ở Đà Lạt, người nông dân thường chỉ được thông báo mức giá sản phẩm sau khi thương lái bán ra. Đã vậy, giá hồng ăn trái thường xuyên bấp bênh, tình trạng mất mùa nhưng lại mất giá vẫn xảy ra.
Trước đòi hỏi của thị trường về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, Dự án “Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu chứng nhận hồng ăn trái Đà Lạt” đang khởi động hướng đến các tiêu chí xác định cụ thể về chất lượng của loại cây ăn trái đặc sản này của Đà Lạt nói riêng, Việt Nam nói chung.
Trên cơ sở điều tra thực tế sản xuất hồng ăn trái trên từng nông hộ, Dự án sẽ hoàn chỉnh các tiêu chí được xét cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Hồng ăn trái Đà Lạt” gồm: nguồn gốc, xuất xứ ươm trồng, chăm sóc và thu hoạch tại Đà Lạt; xác định các chỉ tiêu về hình dáng, kích cỡ, màu sắc của trái hồng; các thông số kỹ thuật về quy trình ươm giống, trồng và chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, đóng gói... Dự án sẽ được nghiệm thu vào cuối năm 2016 để chính thức triển khai nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh được xác lập quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Hồng ăn trái Đà Lạt”!
Có thể bạn quan tâm

Tỉnh Tiền Giang xác định bưởi nằm trong 7 loại cây ăn trái đặc sản có lợi thế cạnh tranh cần đầu tư phát triển. Địa phương đã mở rộng diện tích bưởi lên trên 4.700 ha trồng các giống bưởi chất lượng cao: bưởi da xanh, bưởi lông Cổ Cò mỗi năm cho sản lượng khoảng 80.000 tấn quả cung ứng thị trường. Diện tích trên tập trung nhiều nhất tại các huyện phía Tây: Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè.

Nuôi chim bồ câu Pháp rất đơn giản, dễ chăm sóc và mang lại hiệu quả cao. Hiện mô hình này đang được bà con nông xã Hồng Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận) thực hiện và nhân rộng.

Ông Nguyễn Ngọc Song (thôn 4 Cao Triều - Quảng Công - Quảng Điền - Thừa Thiên - Huế) cho biết: Tôi đã làm nghề nuôi tôm được gần 10 năm, song trước đây, các động cơ phục vụ nuôi tôm như động cơ sục khí hay máy bơm nước đều sử dụng dầu diesel. Thời gian gần đây, tôi chuyển sang sử dụng động cơ điện.

Canh tác 6 héc - ta lúa nằm trong vùng đê bao Vĩnh Thuận, ông Phan Thành Phương (ấp Vĩnh Thuận, xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành - An Giang) cho biết: “Từ năm 2008 đến nay, chưa xả lũ lần nào nhưng lại sản xuất liên tiếp 3 vụ lúa mỗi năm, không xả lũ lấy phù sa màu mỡ và rửa trôi các mầm bệnh còn tích trữ trong đất, nguy cơ làm phát sinh dịch hại trên lúa khó tránh khỏi. Đất nghèo dinh dưỡng nên phải bón nhiều phân hóa học mới giữ được năng suất lúa. Mỗi héc-ta lúa bón khoảng 400 - 450 kg phân các loại/vụ, còn vài năm trở lại đây phải tăng từ 500 kg phân bón/héc - ta trở lên, mặc dù đã áp dụng các kỹ thuật mới vào sản xuất, bón nhiều phân Kali để cải tạo đất lâu năm chưa phơi ải, giúp bộ rễ cây lúa phát triển, hạn chế đổ ngã, giằn phèn”.

Theo thống kê của ngành chức năng, tháng 3/2013, toàn tỉnh Bạc Liêu có 10.194 ha tôm nuôi bị thiệt hại. Trong đó, 269 ha tôm nuôi công nghiệp và bán công nghiệp thiệt hại trên 70% và 9.925 ha tôm nuôi quảng canh cải tiến kết hợp thiệt hại từ 30 - 70%.