Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Xây Dựng Mô Hình Nuôi Bò Thịt Chất Lượng Cao Tại Ba Tri (Bến Tre)

Xây Dựng Mô Hình Nuôi Bò Thịt Chất Lượng Cao Tại Ba Tri (Bến Tre)
Ngày đăng: 28/04/2014

Bến Tre có tổng đàn bò phát triển khá lớn, trên 155.000 con. Chất lượng đàn bò ngày càng nâng lên, trọng lượng bò đực trên 700kg, tốc độ tăng trọng nhanh từ 650-850 g/ngày, tỷ lệ xẻ thịt cao từ 49%-51%. Công tác thụ tinh nhân tạo được người nuôi ngày càng quan tâm.

Trước đây, phần lớn người nuôi chỉ chú trọng hình thức bên ngoài như màu sắc, xoáy tích khi chọn bò giống nhưng nay đã quan tâm nhiều đến chất lượng con giống.

Để xác định tổ hợp lai từ các giống bò thịt, đẩy mạnh việc ứng dụng các giống bò mới, cần có đề tài so sánh con lai F1 giữa các giống bò Brahman, Red Angus, lai Sind phối với bò cái nền địa phương.

Do vậy, đề tài đã chọn Ba Tri làm mô hình bởi huyện này có tổng đàn bò lớn nhất tỉnh, khoảng 70.000 con. Hơn nữa, trong nhiều năm qua, huyện cũng là điển hình trong phong trào cải tạo đàn bò tốt nhất trong tỉnh.

Hiện đàn bò trong huyện đã được Sind hóa 100%, tạo phong trào nuôi bò thịt khá tốt, tăng thu nhập đáng kể cho người nuôi.

Nhằm xác định công thức phù hợp, Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ thực hiện đề tài “So sánh con lai F1 giữa các giống bò Brahman, Red Angus, lai Sind trên nền đàn bò địa phương và xây dựng mô hình nuôi bò thịt chất lượng cao”.

Theo đó, số bò cái được tuyển chọn tham gia thí nghiệm theo tiêu chuẩn đề tài là 169 con. Sau khi phối giống 3 tháng, tiến hành khám thai và số bò cái có chửa là 95 con, chiếm tỷ lệ bình quân là 57%.

Tuy nhiên, số bê được sinh ra và nuôi sống là 89 con, chiếm 94%. Qua quá trình khảo nghiệm hiệu quả kinh tế, các nhóm bò thịt nuôi, bò đực vỗ béo đã rõ. Doanh thu nuôi bò đến 22 tháng tuổi (cả bò đực 18 tháng tuổi, bò đực nuôi vỗ béo) cho thấy, bò lai Red Angus cho lợi nhuận cao nhất 33,805 triệu đồng so với 2 nhóm bò còn lại Brahman 32,340 triệu đồng và lai Sind 33,256 triệu đồng.

Tuy vậy, hiệu quả kinh tế nuôi bò đực vỗ béo các nhóm bò nuôi thí nghiệm trong 4 tháng thì nhóm bò lai Sind có hiệu quả nhất, 20,666 triệu đồng, kế đến là bò lai Brahman 15 triệu đồng, thấp nhất bò lai Red Angus 13,156 triệu đồng.

Theo đánh giá của dự án, nguyên nhân trước nhất là do bò giống: các giống bò chuyên thịt có thời gian sinh trưởng và phát triển ngắn hơn giống bò địa phương. Nếu trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, với nhóm bò chuyên thịt ôn đới thì thời gian nuôi thịt khoảng 15-16 tháng là tốt và thời gian nuôi vỗ béo thêm 3 tháng nữa sẽ có hiệu quả kinh tế cao.

Với các giống bò chuyên thịt nhiệt đới Brahman thì thời gian nuôi thịt khoảng 17-18 tháng và nuôi vỗ béo thêm 3 tháng. Riêng đối với nhóm bò laiSind thì thời gian nuôi thịt là 18 tháng và 3 tháng nuôi vỗ béo. Nguyên nhân thứ hai là sự sinh trưởng tuân theo qui luật sinh trưởng bù trừ.

Quan sát trên đàn bò thịt khi chọn đưa vào giai đoạn nuôi vỗ béo thì bò lai nhóm Red Angus có trọng lượng cao nhất, bình quân 411,9kg, bò lai Brahman 403kg, lai Sind 302kg. Vậy, so với 2 nhóm bò chuyên thịt thì bò lai Sind có điều kiện thuận lợi nhất để sinh trưởng bù.

Trong đó, 2 nhóm giống bò chuyên thịt có trọng lượng xuất phát khi vỗ béo khá cao nên khả năng sinh trưởng sẽ bị hạn chế. Trong 2 tháng cuối của giai đoạn vỗ béo, năng suất sinh trưởng giảm do bò sinh trưởng tích lũy mỡ.

Kết quả thử nghiệm cho thấy: tinh bò Angus với bò cái lai Sind là có hiệu quả kinh tế tốt nhất. Tỷ lệ phối giống đậu thai cao nhất trong nghiên cứu tinh bò Brahman với bò cái lai Sind là 71,43%; tinh bò Red Angus với bò cái lai Sind là 66,67%; tinh bò Angus với bò cái lai Sind địa phương là 54,76%; bò đực lai Sind với bò cái lai Sind địa phương là 33%. Khối lượng bình quân giai đoạn sơ sinh của từng nhóm bò lai lần lượt là 23,46kg, 30,96kg, 31,23kg, 22,49kg.

Giai đoạn 18 tháng tuổi lần lượt là 287kg, 330kg, 384kg, 262kg, tăng trọng bình quân là gram/con/ngày lần lượt là 780kg, 808kg, 921kg, 690kg.

Hiện đề án đang tiếp tục nghiên cứu so sánh với các giống bò chuyên thịt với nhau như Angus, Charolaise, BBB, Limousine. Cần thử nghiệm số lượng lớn tinh bò thịt Angus phân biệt giới tính mới đánh giá đúng hiện quả; nghiên cứu sơ chế, dự trữ thức ăn sẵn có tại địa phương như bắp, đậu phộng.


Có thể bạn quan tâm

Phú Thuận (An Giang) Thả Nuôi Gần 160 Héc-Ta Tôm Càng Xanh Phú Thuận (An Giang) Thả Nuôi Gần 160 Héc-Ta Tôm Càng Xanh

UBND xã Phú Thuận (An Giang) cho biết, nông dân trên địa bàn đã thả nuôi 19 triệu con giống, trên diện tích gần 160 héc-ta, trong đó khoảng 10 héc-ta tôm toàn đực.

31/05/2014
Toàn Tỉnh Đã Thu Hoạch 30.000 Ha Lúa Hè Thu Sớm Toàn Tỉnh Đã Thu Hoạch 30.000 Ha Lúa Hè Thu Sớm

Các địa phương thu hoạch lúa hè thu sớm tập trung nhiều ở huyện Tháp Mười, Cao Lãnh và Tân Hồng. Dự kiến vào cuối tháng 7, toàn tỉnh Đồng Tháp sẽ thu hoạch dứt điểm hơn 194.000ha lúa hè thu.

31/05/2014
Thả 2000 Con Giống Điệp Quạt Tại Vùng Biển Ven Bờ Xã Phước Thể (Bình Thuận) Thả 2000 Con Giống Điệp Quạt Tại Vùng Biển Ven Bờ Xã Phước Thể (Bình Thuận)

Vào lúc 7h, 29/5/ 2014, tại vùng biển ven bờ xã Phước Thể, huyện Tuy Phong (Bình Thuận). Ban quản lý dự án Điệp cùng đại diện các cơ quan chức năng và 50 ngư dân đã thả 2000 con giống Điệp xuống biển để tái tạo nguồn lợi. Giống điệp quạt này được lấy từ Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Nha Trang.

02/06/2014
Ngư Dân Nhơn Lý (Bình Định) Trúng Đậm Cá Nục Gai, Cá Giò Ngư Dân Nhơn Lý (Bình Định) Trúng Đậm Cá Nục Gai, Cá Giò

Từ ngày 26.5 đến nay, hàng trăm tàu thuyền của ngư dân xã Nhơn Lý (TP Quy Nhơn - Bình Định) hành nghề mành trủ trúng đậm cá nục gai, cá giò; có thuyền trúng lớn đến 26 tấn cá. Giá cá nục gai ngày đầu 90 ngàn đồng/két (1 két 12 kg), cá giò 50 ngàn đồng/két, do sản lượng đánh bắt nhiều hiện giá cá nục gai giảm còn 70 - 75 ngàn đồng/két và 40 - 45 ngàn đồng/két cá giò.

02/06/2014
Sản Phẩm Cá Tra Đã Có Mặt Ở 142 Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ Sản Phẩm Cá Tra Đã Có Mặt Ở 142 Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ

Theo Cục Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối, hiện sản phẩm cá tra đã có mặt ở 142 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 90% thị phần thế giới.

02/06/2014